Về việc vua Quang Trung đại phá quân Thanh, hiện nay, hầu như ai cũng biết. Tuy nhiên, ít người biết rằng nhiều thông tin về chiến công oai hùng đó thực ra không đến từ nguồn sử liệu chính thống.
Nhiều người cho rằng hiểu biết về sự kiện lịch sử này chủ yếu đến từ một tác phẩm văn học, cuốn sách mang tên Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc Hà Nội). Để cảm nhận hơi thở của những ngày chiến thắng, không gì tốt hơn là đọc lại hồi thứ mười bốn trong cuốn tiểu thuyết lịch sử của dòng họ Ngô.
Tuy nhiên, mục đích của tác giả khi viết Hồi thứ mười bốn trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí không phải là để ca ngợi chiến thắng của Quang Trung. Đọc lại hai đoạn mở đầu của hồi truyện có thể giúp độc giả hiểu rõ hơn về điều này.
Trận Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thất bại
Rời bỏ Thăng Long, Chiêu Thống lánh ra ngoài.
Rõ ràng, theo quan điểm của tác giả, đoạn này là một phần trong câu chuyện về vua Lê, được lấy từ góc nhìn của vua Lê, theo tinh thần của 'Hoàng Lê thống nhất'. Vì vậy, trong đoạn trích này của tiểu thuyết lịch sử, nếu có ai được gọi là 'vua' bằng một từ thì chắc chắn phải là Lê Chiêu Thống, và nếu có đội quân nào được gọi là 'nghĩa binh' (quân chính nghĩa) thì chính là 'quân nhà Lê (trong khi lực lượng thực sự có thể được gọi là quân nghĩa, quân lính của Tây Sơn chỉ được biết là 'quân binh', 'quân sĩ', không có từ 'nghĩa' nào đi kèm).
Cuối đoạn trích, tác giả cũng ghi lại cảnh mẹ con Lê gặp người thổ dân tại một trại sơn thuộc vùng Hòa Lạc. Điều này không phải là do tình cờ tạo ra một tình huống hài hước để độc giả có cơ hội cười vui. Ngược lại, tác giả có vẻ cố gắng để diễn tả một tấm lòng cao quý, trung trực và chân thành, ngay cả khi vua của họ đang gặp khó khăn.
Trong chi tiết này, có sự kết hợp giữa niềm vui và nỗi buồn, bữa cơm gà nhanh chóng, lối rút để vua chạy trốn... tác giả có vẻ như muốn nhấn mạnh rằng: dù cho triều đại đang rơi vào tình hình khó khăn, lòng người vẫn chưa từ bỏ, và dù vua Lê phải đối mặt với khó khăn nhưng trong lòng vẫn còn mối tình cảm cao thượng...
Nói về quan điểm chính trị, tác giả của Hoàng Lê Nhất Thống Chí đứng ở phía đối lập với phong trào Tây Sơn. Nhưng may mắn là họ Ngô không thể đánh bại chính mình. Mối quan hệ chính trị ấy không thể thắng được lòng trung thực, trí tuệ, và lương tâm của người biết nhận thức được sự thật và muốn phản ánh nó. Tình cảm chính trị không thể biến thành sức mạnh văn chương, không đủ để kiểm soát nội dung của văn chương.
Không biết người viết Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí có lẽ không ngờ rằng, với tác phẩm nghệ thuật này, họ đang viết một bản án cho chính chế độ họ vẫn kính trọng? Và liệu người phù Lê có nhận ra rằng họ đang sáng tác một bản tình ca cho những người đang chấm dứt số phận lịch sử của nhà Lê.
Tuy nhiên, điều này chính là sự thật. Một sự thật rất thú vị khi chúng ta nhận thức, thưởng thức và suy ngẫm về tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Tuy nhiên, tác giả của những trang viết này là một nhà văn, một người nghệ sĩ. Tư cách nghệ sĩ không cho phép ông kể sự thật một cách phiến diện, đơn giản. Hồi chuyện bắt đầu từ phía có vẻ như ngược lại.
Đội quân xâm lược nhà Thanh thường được miêu tả như một đạo quân hung dữ, có sức mạnh phá hoại không thể ngăn cản: 'Ngay cả khi Tôn Sĩ Nghị dẫn quân ra khỏi cửa ải, xuyên rừng vượt núi như đi trên đất bằng, ngày đêm không phải lo lắng, đến Thăng Long như đi vào nhà không có người, không mất một viên đạn, như không gặp phải trở ngại gì'. Thật như là chống lại một đạo quân như thế là như đặt trứng chọi đá. Và ngay sau đó, tác giả còn thêm: 'Chưa từng có đội quân nào từng dễ dàng như vậy từ trước đến nay'.
Nhưng sự dễ dàng ấy không hề tồn tại, chính điều này khiến cho những người đã trải qua, đã hiểu biết để lại nghi ngờ. Từ rất lâu trước đó, người ta đã hiểu rằng mọi thứ đều có thể thay đổi khi đạt đến độ cực điểm. 'Mọi thứ đều có thể thay đổi'. Nhưng thay vì thay đổi theo hướng tích cực.
Và điều này, tác giả không để người đọc phải chờ đợi lâu. Những câu chuyện cổ xưa đã dạy chúng ta rằng 'không nên kiêu ngạo khi chiến thắng', nhưng đội quân của Tôn Sĩ Nghị đã tỏ ra kiêu ngạo ngay cả trước khi chiến thắng: 'Quân lính trong các đồn tự do, đi lang thang, không tuân thủ quy tắc, đến ngày nghỉ cũng không có kỷ luật gì... Các tướng chỉ biết tiệc tùng mỗi ngày, không quan tâm đến việc quân đội'. Bản tính của sự thất bại đã bắt đầu từ đây.
Thông tin trở nên rõ ràng hơn qua lời của một cung nhân cũ từ phủ Trường Yên. Dù không rõ mức độ chính xác và sâu sắc của những lời nói đó về mặt lịch sử, nhưng về mặt văn chương, chi tiết này rất thú vị. Những lời của cung nữ có lẽ không phản ánh toàn bộ chiến công vĩ đại của vua Lê, nhưng nếu có, cũng chưa đủ để cứu vãn triều đại Lê khỏi nguy cơ nguy hiểm bên trong.
Không chỉ vì những lời nói này đã tạo ra ấn tượng sớm về một Nguyễn Huệ bất bại, một Nguyễn Huệ hùng mạnh, trước khi Nguyễn Huệ xuất hiện trong truyện: Xem hắn đi từ Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể đoán trước được. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn...
Khi hắn thực hiện hành động, ánh mắt của mọi người đều trở nên kinh sợ, sợ hơn cả sấm chớp. Họ lo sợ rằng trong ít phút nữa hắn sẽ xuất hiện, và tổng đốc Tôn Sĩ Nghĩ sẽ mang quân đội mà họ nhớ nhà để chống lại, làm thế nào để đối phó với kẻ thù khiến họ lo lắng. Âm vang của một chiến thắng hùng hậu đã bắt đầu vang lên từ lời cảnh báo của cung nhân.
Tinh thần văn chương trong chi tiết về người cung nhân cũng phản ánh ra điều rằng, thậm chí một phụ nữ bình thường, bị bỏ rơi, xa lánh từ cung điện đã hiểu biết về binh sự nhiều hơn một Thái hậu 'mẫu ghi thiên hạ' cao quý, quyền uy. Khi bà Thái hậu kể chuyện đó cho vua, và vua đề nghị Tôn Sĩ Nghĩ giải quân đó, thì sự thật đã được tiết lộ: những kẻ nắm quyền quân sự dường như không có kiến thức về phụ nữ!
Một phụ nữ vô danh đã có thể mở ra một thế giới tri thức cho triều đình, quân đội, tướng tá về chiến lược, tình hình, cách điều binh. Lời nói của người cung nhân đã khiến Thái hậu phải 'bất ngờ' và vua Lê 'kinh sợ'. Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí nhận ra và muốn chúng ta hiểu: không có gì có thể mang lại sức mạnh trong ý chí và hành động cho những người yếu đuối như họ.
Dù bất đồng, nhưng bọn họ không hề hành động, bởi lo sợ và lời trách mắng chỉ là phù du. Họ tiếp tục lười biếng, tự dối lòng trong suy nghĩ: 'Cần phải tính toán kỹ lưỡng, không thể vội vàng, đợi đến mùa xuân, ngày mùng sáu mới xuất quân, không còn xa lắm'...
Nhà văn đã mô tả một dấu hiệu khủng hoảng khác của triều đại Lê Chiêu Thống. Đó là bản chất của một chế độ mất khả năng hành động, thiếu ý chí và quyết tâm. Trái lại, trong khi những kẻ cướp nước cứ thong thả, phân rã trong sự kiêu căng và trì hoãn, anh hùng Tây Sơn lại nhanh chóng hoàn thành nhiều công việc lớn lao.
Quân Thanh chỉ biết ăn chơi, trong khi quân Tây Sơn luôn chuẩn bị sẵn sàng. Quân Thanh im lặng và không chuyển động: Ngược lại, quân Tây Sơn liên tục thay đổi. Khi câu chuyện chuyển sang thời gian tiếp theo, nhấn mạnh: 'Ngày 20 tháng đó (tháng 11 âm lịch, năm Mậu Thân 1788), rút lui về Tam Điệp, ngày 24 Tuyết đã đến Phú Xuân'...
Chỉ trong một tháng sau đó, Nguyễn Huệ đã hoàn thành mọi chuẩn bị. '25 tháng chạp', quân đã ra quân. 'Ngày 29 đến Nghệ An'. Hơn 10 nghìn quân được tập hợp và sắp xếp gọn gàng. Sau đó, vào ngày 30. Quân đến Tam Điệp và cùng tối hôm đó, năm anh hùng đã đến Bắc Hà, sau khi đã mở tiệc ăn Tết.
Ta đang chứng kiến một tác phẩm văn chương đầy sức mạnh, hăng hái, sôi động, đầy phấn chấn. Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí, một phần của dòng dõi danh tiếng ở Bắc. Nguyễn Huệ, một người trung thành từ miền Trung.
Tuy vậy, văn phong Ngô gia không nhìn thấu lãnh tụ Tây Sơn chỉ là một kẻ võ biền, một nông dân thiếu kiến thức. Ngược lại, Ngô Thì đã vượt qua rất nhiều định kiến để tôn vinh sự hiểu biết và tri thức của Quang Trung. Hãy lắng nghe lời hiếu dụ của Hoàng đế Quang Trung trong cuộc duyệt binh ở Nghệ An.
Chúng ta có nhận ra từ lời kêu gọi dưới cõi lòng của một dân tộc hùng mạnh, giọng khích lệ nghiêm túc của một tướng lĩnh và nhất là âm hưởng của niềm kiêng nể, lòng dũng cảm ở những dòng văn Bình ngô đại cáo? Chắc chắn chỉ có tinh thần và tâm hồn cao cả mới thể hiện được tinh hoa đó trong một bài diễn văn rộng lớn.
Tác giả dần hiểu rằng sự tự tin của quân Thanh là kiêu ngạo, mù quáng, không hiểu biết về đối thủ hoặc hoàn cảnh. Trong khi đó, sự tự tin của Tây Sơn được củng cố bằng sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ lực lượng đến chiến thuật. Vì thế, trận chiến đó là cuộc đấu giữa sự anh dũng và sự hoảng loạn của kẻ địch.
Trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, chiến dịch phi thường chỉ được kể bằng ngôn ngữ đời thường của văn học, không dài, chỉ là một phần nhỏ trong sách giáo khoa. Nhưng nó quý giá vì ghi lại một chiến thắng sống động, lịch sử của Việt Nam.
Người đọc có thể hình dung chuỗi trận đánh liên tiếp, mỗi trận đều hùng tráng, mỗi trận đều chớp nhoáng, không có trận nào giống trận nào. Có trận ở hai sông, Gián và Thanh Quyết, từ 'Nghĩa binh' của Lê Chiêu Thống đến quân Thanh sợ hãi trước quân Tây Sơn và bỏ chạy, để bị bắt sống.
Đến trận Hà Hồi, binh uy của vua Quang Trung vẫn mạnh mẽ, chỉ cần dạ rụng là lấy được đồn. Quân Thanh chỉ đánh lại một lần duy nhất ở Ngọc Hồi, nhưng sự chống đỡ yếu ớt và ngắn ngủi. Chúng bắn ra mà không gây thiệt hại. Sử dụng ống phun lửa để tự phải chịu một trận hỏa công khi gió thổi.
Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí làm rõ sự khác biệt rõ ràng giữa Tôn Sĩ Nghị - Lê Chiêu Thống và quân tướng của Quang Trung. Đối với quân Thanh, súng đạn và ống phun lửa không có ý nghĩa, chỉ tự phá hủy bản thân.
Còn với quân Tây Sơn, cả ván và rơm đều đủ để họ trở nên vô địch. Quân Thanh chỉ cần chạy là bị tiêu diệt, như ở Mực, Quỳnh Đô. Đội quân xung kích của Quang Trung chỉ khoảng sáu trăm người, nhưng vẫn phá vỡ tuyến phòng thủ mạnh nhất.
Bọn cướp nước và bán nước có quân đông và vũ khí nhiều. Nhưng thiếu ý chí, tinh thần chiến đấu, sự sẵn sàng cho cuộc chiến. Tác giả cho thấy rằng chúng không biết sợ hãi. Khi lửa cháy lên, việc duy nhất mà chúng lo lắng là bỏ chạy nhanh chóng. Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí là bằng chứng rõ ràng về sự hèn nhát của bọn quan tướng.
Tác giả cho thấy rằng bọn chúng không lo lắng, yên tâm nằm gần lửa. Nhưng khi lửa bùng lên, họ chỉ biết chạy thục mạng. Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí là bằng chứng rõ ràng về sự hèn nhát của bọn quan tướng.
Chi tiết cụ thể, sống động được mô tả ở đây, thực sự hùng hồn hơn mọi lời bàn luận. Quang Trung là vua, nhưng vẫn tự mình cưỡi voi dẫn quân. Còn Tôn Sĩ Nghị, mặc dù làm tổng chỉ huy, nhưng tháo chạy trước khi chiến đấu đã bắt đầu, vội vã tới mức 'Ngựa chưa kịp buộc yên, người chưa kịp mặc giáp'.
Quân lính dưới quyền không chỉ chạy trốn mà còn chịu sự phạt tàn cuối cùng: không có ai đánh nhưng quân vẫn chết nhiều đến nỗi dòng sông lớn như Nhị Hà cũng bị tắc nghẽn. Mẹ con vua Lê bị bỏ rơi, phải băng qua sông bằng thuyền đánh cá, mà vẫn phải tri ân Tôn Sĩ Nghị: 'Đều là công ơn của tướng quân ban cho!'.
Tác giả của Hoàng Lê Nhất Thống Chí phải nhận thấy: sức mạnh duy nhất trong trận chiến đến từ quân đội Tây Sơn. Sức mạnh đó xuất phát từ nhân dân. Sử dụng ván và rơm làm lá chắn, thành tường chống đạn, một sự khôn ngoan đặc biệt không thể tìm thấy từ những người quý tộc.
Sự phấn khích, lòng đoàn kết của nhân dân như một, không sợ khó khăn, không ngần ngại hy sinh, đó là ngọn lửa sáng rực từ tinh thần yêu nước của quần chúng. Sức mạnh vô song của nhân dân kết hợp với trí tuệ của lãnh đạo đã biến đội quân của những người áo vải thành thần thánh, uy thế chấn động trời đất, biến hóa xuất quỷ nhập thần.
Trong hồi truyện đó, tác giả sẽ mô tả cuộc chạy trốn của Lê Chiêu Thống khỏi Thăng Long. Rồi tác giả sẽ kết thúc hồi truyện này với hai dòng thơ, muốn gợi lên nhiều cảm xúc, nỗi buồn thương:
Bờ cõi hết chốn tính kiếp
Nước non buồn dạ chia ly
Tuy nhiên, có lẽ công sức của họ Ngô đã vô ích. Tình cảm bi thương dường như không thể truyền đạt được vào tâm hồn của đông đảo người đọc. Trước đó, tác giả đã thành công quá mức trong việc tái hiện bức tranh của một triều đại đã mất đi sức sống: một triều đại phải nói lời tạm biệt, phải tiễn đưa xuống ngôi mộ một cách vui vẻ chứ không phải là đau lòng. Ông cũng đã thành công quá mức trong việc tạo ra cảm giác: chiến thắng hùng vĩ này thực sự thuộc về những người xứng đáng, là quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của anh hùng dân tộc Quang Trung.
Nguồn: Tìm kiếm