'Tràng giang', là một bài thơ nổi tiếng, được in trong tập ''Lửa thiêng' (1940) của Huy Cận. 'Tràng giang' mang phong cách của thơ Đường khá rõ ràng. Ngay từ hai câu đầu:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Chiếc thuyền trôi dòng nước song song”.
Cảm nhận được hòa mình trong giai điệu và bốn dòng thơ của Đỗ Phủ trong bài 'Đăng cao':
'Vô biên lang thang giữa đại dương hướng về dưới đất
Bất tận bên bờ sông hiện ra bao la'.
(Ngàn cây đứng cao lá úa rụng vùi dập
Dòng sông lớn dâng lên nước cuồn cuộn trôi).
Có thể nói âm nhạc và tinh thần của thơ Đường đã thấm sâu vào lòng Huy Cận từ thời trẻ. Nhưng ở đây, 'tràng giang' đề cập đến tự nhiên, quê hương Việt Nam, là những con sông lớn như sông Hồng và trong thơ của Huy Cận, mỗi con sông đều mang vẻ đẹp rộng lớn, bao la. Cảm xúc về không gian trong thơ Huy Cận thường được kết nối với hình ảnh của những con sông:
Tới ngã ba dòng nước ôm trọn bốn phương...
Chiều mưa trên đồng lúa, sóng nước dâng trào
Suối mát ngọt tràn ngập bờ cỏ...
Ánh trăng lấp lánh trên bờ, dòng nước trôi êm đềm...
Quê hương, những làng quê giàu có dần dần mọc lên bên bờ những dòng sông lớn. Sông lớn là biểu tượng của đất nước, của sự vững vàng bền bỉ qua thế hệ. Sau này, Nguyễn Đình Thi cũng đã viết:
'Những con sông đỏ nặng phù sa
Đất nước của chúng ta
Đất nước của những người không bao giờ quên
Mỗi đêm vang lên tiếng gầm trong lòng đất
Những ngày thơ ấu kể về...'.
Sau một quãng thời gian khám phá, tìm kiếm, Thơ mới đã dần dần hình thành và Xuân Diệu nhận xét: 'Bài thơ gần như trở thành kinh điển của một nhà thơ mới. Và một cách uy nghi, trang trọng, vì đó là 'đại sông', là dòng sông lớn, như sông Hồng; là tràng giang: rộng lớn bao gồm cả dòng sông, dài và sâu vạn ngả, không chỉ một vài ngả, vì là dòng sông lớn... Phong cách thơ cổ điển là chính xác... chỉ có câu thứ tư là hiện đại; thơ truyền thống của tổ tiên không truyền đạt cái tính hiện thực, thực tế, cụ thể đến tận cùng, như “một cành củi khô trôi trên dòng sông'.
Thơ của Huy Cận trước cách mạng thường mang nét buồn. Đó là sự buồn bã và cô đơn của những nhà thơ mới lãng mạn. Tuổi trẻ của Huy Cận mang theo nỗi buồn thanh thản của một làng quê ở Linh Cảm bốn cây số và nỗi buồn của một gia đình nhà nho tan tác, đầy những xung đột không vui. Những ký ức buồn của thơ ấu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng những nhà thơ. Lớn lên, bước vào trường học của đế quốc, họ lại gặp phải tiếng khóc dài trong văn học (Tản Đà, Tương Phố, Lamactin, Muytxê...). Bước vào đời lại gặp phải nỗi đau buồn của xã hội, nỗi nhục nhã của người trí thức mất nước. Chính họ cảm thấy mơ hồ và bế tắc, không tìm ra lối đi... Nỗi buồn trong cuộc sống thực đã trở thành những dòng lệ trong văn chương. Và Huy Cận cũng như những nhà thơ lãng mạn khác cho rằng 'vẻ đẹp luôn mang một chút buồn' (Kinh cầu tự). Nỗi buồn sâu sắc nhất, mơ hồ nhất là nỗi buồn trong 'Lửa thiêng'. Ở đây, nỗi buồn u ám của không gian, thời gian: sóng gợn trên dòng sông lớn, ánh trăng chiếu xuống bãi cát, tiếng rì rầm của bờ cây lau rủ, nỗi buồn của nhân loại từ xa xưa theo gió mang về. Nỗi buồn của Huy Cận là nỗi buồn của vũ trụ, là cảm giác cô đơn của con người trước không gian ba chiều, rộng lớn, bao la:
'Nắng trải dài trên trời mênh mông
Dòng sông dài, bầu trời mênh mông, bến bờ lạc lõng'.
Buồn về cảm giác vũ trụ, vũ trụ ca và cách đặt tên các tập thơ sau này cũng truyền đạt cảm xúc vũ trụ: Mỗi ngày trời lại sáng rực, Đất mở rộng hoa... Huy Cận đã sử dụng tất cả hình ảnh, nhạc điệu để làm nổi bật nỗi buồn cô đơn của con người trước bức tranh sông dài trời rộng. Anh ta ưa thích từ 'tràng giang' hơn là 'trường giang' vì âm thanh “ang' mang lại cảm giác rộng lớn, bao la hơn. Và hai bờ sông ở đây hoang vắng, cô đơn như thời tiền sử, bởi vì không có cầu, không con đò nào làm nối liền. Hai bờ của một dòng sông có thể kéo dài đến chân trời xa xôi như hai thế giới cô đơn, xa lạ không bao giờ gặp lại, không có “mẩu niềm thân thuộc' của những tâm hồn đồng điệu.
Những nhà thơ lãng mạn đã truyền tải cảm xúc buồn và cô đơn của mình vào thiên nhiên. Do đó, thiên nhiên trong thơ mới nói chung, trong thơ của Huy Cận nói riêng, thường mênh mông, rợn ngợp hoặc xa vắng quạnh hiu. Ở đây con người thường tan biến, mất đi giữa thiên nhiên. Cuộc sống con người như chiếc lá trôi dạt, như 'một cành củi khô lạc mấy dòng...' Đến bốn câu cuối cùng:
'Lớp lớp mây trắng đọng trên núi vàng
Chim nhỏ nghiêng cánh: bóng chiều dài...'
Trên bầu trời bao la, những đám mây trắng đọng thành những ngọn núi vàng rực, xuất hiện một cánh chim nhỏ mà 'bóng chiều dài nặng đến mức phải nghiêng cánh, lệch cánh' (Xuân Diệu). Trong hai câu cuối cùng, bốn câu thơ đã đem lại một khía cạnh mới so với bài 'Hoàng Hạc lâu' của Thôi Hiệu. Trong bài thơ của Thôi Hiệu, khách nhìn thấy khói mơ phủ sóng mà lòng lại nhớ về quê hương (Nhật mô hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhãn sầu). Trong thơ Huy Cận thì:
Lòng quê dập dờn bên dòng nước
Bình minh không khói cũng nhớ nhà.
Tại đây lại diễn ra một cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên hoặc có ý đồ giữa Huy Cận và Lưu Trường Khanh. Trong bài Từ Hụ Khẩu (Hán Khẩu) đến bài Anh Vũ gửi Trung thừa họ Nguyên, Lưu Trường Khanh viết:
'Bãi sông yên bình không sóng vỗ, không khói bay
Những người xa xứ Sở nhớ về nhau càng thêm đắng cay
Mặt trời ló dần trên bản Hán Khẩu, giúp đỡ những chú chim bay vút
Nước mùa thu trên hồ Động Đình, bao la đến vô tận'.
Có thể nói tinh thần thơ Đường đã thấm sâu vào lòng thơ của Huy Cận. Và dù học hỏi từ thơ Đường, Huy Cận vẫn tạo ra một phong cách riêng biệt của mình, của Việt Nam. Như đã đề cập trước đó: nỗi buồn trước cảnh 'sông dài, trời rộng, bến cô liêu' là nỗi buồn vô cùng sâu lắng của Huy Cận, và những câu:
'Lơ thơ bãi cồn, gió thổi nhè nhẹ
Đâu đây tiếng làng xa xa vọng từ chợ chiều' đã đem lại một không khí rất đặc trưng của Việt Nam. Không khí ấy gợi nhớ về quê hương của Huy Cận, một ngôi làng nhỏ yên bình thuộc Hương Sơn, Hà Tĩnh, ven sông Thâm bên dãy núi Mồng Gà:
'Tới ngã ba dòng sông bao la
Nửa buổi gà lạ kêu gần đê...'.
Tiếng gà lạ rên rỉ vang lên ven đê hoang vắng khi buổi chiều dần tàn, ở một vùng quê hoang sơ, nghe như làm tan lòng người! Nỗi buồn trong thơ Huy Cận là một nỗi đau khổ 'vốn là của đất nước và núi sông' (Mai sau). Các nhà thơ lãng mạn đã truyền đạt vào trong thơ một tấm lòng mênh mông yêu thiên nhiên và đất nước, cũng như sự quý trọng đối với tiếng Việt, khi ấy coi thường như tiếng mẹ cảm mình. Tiếng lời trong Thơ mới chính là tiếng thương yêu của mẹ, cảnh đẹp trong Thơ mới là hình ảnh tươi đẹp của quê hương Việt Nam với những đặc trưng riêng của từng miền đất ('Quê hương' của Tế Hanh, 'Đây thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử, 'Đà Lạt đêm sương' của Quách Tấn, 'Chùa Hương' của Nguyễn Nhược Pháp, 'Chiều xuân' của Anh Thơ...). Vì vậy ta có thể thống nhất với Xuân Diệu khi anh viết: 'Tràng giang' là một bài thơ tôn vinh non sông đất nước, do đó thể hiện lòng yêu nước Tổ quốc.
GS. Phan Cự Đệ