Đề bài: Phân tích văn bản Bình Ngô đại cáo
1. Dàn ý
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3
Phân tích văn bản Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
I. Tóm tắt Phân tích văn bản Bình Ngô đại cáo (Tiêu biểu)
1. Giới thiệu
- Tổng quan về tác giả Nguyễn Trãi.
- Đánh giá về tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
2. Phần chính:
a. Bối cảnh sáng tác (Theo sách giáo khoa):
b. Ý chí chính nghĩa:
- Tư duy nhân nghĩa: quan điểm tiến bộ, đậm chất hiện đại của Nguyễn Trãi: Nhân nghĩa là tôn trọng nhân quyền, hòa bình, và lòng yêu nước sâu sắc.
- Sự tự lập và chủ quyền của dân tộc Việt Nam từ xa xưa,...(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích văn bản Bình Ngô đại cáo tại đây.
II. Văn mẫu Phân tích văn bản Bình Ngô đại cáo (Chuẩn)
1. Bài mẫu số 1 Phân tích văn bản Bình Ngô đại cáo (Chuẩn):
2. Bài mẫu số 2 Phân tích văn bản Bình Ngô đại cáo (Chuẩn):
Nguyễn Trãi không chỉ là một danh tướng xuất sắc của dân tộc mà ông còn là một nhà văn, một nhà văn chính luận nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm lớn được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Trong số đó, không thể không nhắc đến những bài văn chính luận của Nguyễn Trãi, đặc biệt là “Bình Ngô đại cáo” - một tác phẩm được Nguyễn Trãi viết theo sự truyền lệ của vua Lê Lợi sau khi chiến thắng quân Minh xâm lược. Tác phẩm này đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và được coi là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi viết dưới dạng bản cáo, một dạng văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Quốc với cấu trúc chặt chẽ. Nguyễn Trãi đã khẳng định luận điểm chính nghĩa ngay từ đầu bài cáo của mình.
Đã từng nghe: tôn trọng nhân nghĩa là tôn trọng dân chúng
Quân cưỡng chế trước định luật tôn trọng lẽ phải
Bài Phân tích văn bản Bình Ngô đại cáo có bố cục chi tiết
Chỉ trong hai câu đầu của bài cáo, Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng chủ đạo của mình - nhân nghĩa, một giá trị tư tưởng xuất phát từ Nho giáo, thể hiện trong việc đối nhân xử thế và giao tiếp tốt đẹp giữa con người với con người. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa bắt nguồn từ tôn trọng dân chúng và tôn trọng lẽ phải. Có thể nói, đây là nền tảng tư tưởng của bài cáo, dựa trên quan điểm chính nhân dân, từ lòng yêu thương dân chúng và vì dân chúng mà chống lại sự bạo lực, chống lại sự xâm lược. Đồng thời, trong phần đầu của bài cáo, Nguyễn Trãi cũng nêu lên những nguyên tắc độc lập khách quan, tạo nền tảng lý luận vững chắc để khẳng định độc lập dân tộc và thể hiện tư tưởng của bản cáo.
Như nước Việt Nam ta từ lâu
Tự hào nền văn minh vẹn còn
Núi sông, bờ cõi nước thấm đẫm
Văn hóa Bắc Nam đẹp tự hào
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần xưa nay vun đắp
Cùng với Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi phương đế chưng diện
Mạnh yếu dù khác nhau
Ươm hoa anh hùng đời nào cũng vinh quang.
Chỉ một đoạn văn ngắn đã thể hiện rõ vẻ đẹp và truyền thống vĩ đại của dân tộc. Nước Việt Nam đã từng tồn tại một nền văn minh đặc sắc, và phong tục văn hóa Bắc Nam trải dài từ xa xưa. So sánh các triều đại của chúng ta với phương Bắc, tác giả đã khẳng định sự độc lập và tự hào dân tộc. Không chỉ vậy, tác giả còn nhấn mạnh lịch sử vinh quang của quân và dân ta trong các trận chiến lịch sử.
Lưu Công tham công nên họa bại
Triệu Tiết thích lớn mất mạng tan
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết chết Ô Mã
Cuộc xưa lưu lại
Chứng cớ không quên.
Thêm vào đó, từ luận điểm chính nghĩa đã nêu, Nguyễn Trãi đã phân tích rõ hành động xâm lược của quân Minh với nước ta.
Giai đoạn Hồ càng gây nhiều phiền toái
Dân chúng lòng oán trách nặng nề
Quân Minh tận dụng cơ hội tạo khó khăn
Bọn độc ác bán nước mong danh vọng.
Chỉ với bốn câu văn, tác giả đã phác họa âm mưu xâm lược của giặc Minh. Họ lợi dụng hỗn loạn nội bộ dưới triều Hồ, với khẩu hiệu “phù Trần diệt Hồ”, họ xâm nhập và thực hiện kế hoạch xâm lược. Không chỉ vậy, tác giả còn tố cáo những hành động tàn bạo của giặc bằng những hình ảnh và từ ngữ đặc sắc. Tội ác đầu tiên của giặc Minh là sát hại dân vô tội.
Dân bị đốt trên lửa nguyên sơ độc đáo
Con thơ bị chôn dưới đất bóng tối
Với sự đảo ngữ và hình ảnh biểu tượng, tác giả đã mô tả hành động tàn ác của giặc. Ngay cả những người vô tội như “dân đen”, “con thơ” cũng không được tha thứ. Hành động giết người của bọn chúng là tàn bạo và dã man. Chúng còn tàn sát người dân vô tội bằng cách đẩy họ vào những nơi rừng hoang, nước độc, nơi đầy hiểm nguy và không biết có thể trở lại hay không.
Người bị đẩy xuống biển, lưng còng vòm ngọc, sợ cá mập, lo sợ sóng dữ
Kẻ bị đem vào núi tìm cát, khổ sở tìm vàng, nơi rừng hoang, nước độc.
Hành động tàn bạo của bọn giặc còn được thể hiện qua chính sách thuế nặng và phi lý cùng với việc phá hủy môi trường sống, cảnh quan tự nhiên, tiêu diệt sự sống trên đất nước ta.
Thuế khóa nặng chưa từng thấy, núi sạch không còn
...
Lùng sản vật, bắt chim bắt bướm, mọi nơi lưới dịch
Quấy rối dân, bẫy hươu đen, khắp nơi cạm bẫy
Tàn hại cả loài côn trùng, thảm hại cây cỏ.
Với hàng loạt hình ảnh sinh động, đầy ý nghĩa biểu tượng, phần thứ hai của bài cáo như một cuộc trình bày nghiêm trọng về tội ác và hành vi độc ác của giặc xâm lược. Tất cả những tội ác đó được tác giả tóm gọn trong những câu thơ sắc bén và biểu tượng. Đồng thời, qua những dòng thơ đó, tác giả bày tỏ sự căm phẫn sâu sắc đối với kẻ thù.
Trúc Nam Sơn ghi bao tội ác
Nước Đông Hải rửa sạch mùi tanh
Có lẽ thiên địa dung tha
Thần dân ai đủ sức chịu đựng?
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ tập trung vào việc phơi bày tội ác của kẻ thù mà còn khắc họa một cách sâu sắc cuộc kháng chiến và chiến thắng của quân dân ta. Mở đầu cho phần chính là hình ảnh vị tướng lãnh vĩ đại, anh hùng Lam Sơn:
Ta đây:
Lam Sơn nổi giận nghênh đón nghĩa quân
Trên vùng hoang mạc tựa bão xanh
Đại từ “ta” bày tỏ sự lai lịch, nguồn gốc, và lòng yêu nước của anh hùng Lê Lợi. Hơn ai hết, Lê Lợi hiểu rõ sâu sắc căm thù giặc và sự đau lòng của dân tộc khi phải chịu đựng ách đô hộ. Ông không chỉ có lòng căm thù mà còn mang trong mình những suy tư, lo lắng, và đau khổ. Tuy nhiên, ông đã dũng cảm khí phách đứng lên lãnh đạo cuộc kháng chiến, góp phần vào chiến thắng cuối cùng của dân tộc.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.
Trong phần ba của bài cáo, tác giả tái hiện cuộc kháng chiến của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi cùng những chiến công vang dội trong thời gian đó. Sau chiến thắng, quân ta còn cấp ngựa, thuyền và lương thực cho bọn giặc để chúng rút lui, thể hiện lòng nhân ái và tư tưởng chính nghĩa của dân tộc.
Từ đây, dân tộc ta vững bền hơn
Giang sơn từ đây đổi mới
…
Mọi người đều hiểu rõ và tôn trọng những điều này
Bằng lời tuyên bố hùng hồn, sắc bén, Nguyễn Trãi đã lan tỏa thông điệp của mình về độc lập, hòa bình, và sự thống nhất của dân tộc, thể hiện niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn cho đất nước và con người.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ là một tài liệu lịch sử mà còn là một tác phẩm chính trị sâu sắc, kết hợp hoàn hảo giữa chính trị và cảm xúc. Giá trị của bài cáo vẫn được tỏa sáng cho đến ngày nay.
3. Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo, mẫu số 3:
Dưới đây là bài viết giới thiệu về tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Để hiểu sâu hơn về giá trị của bài viết, bạn có thể tham khảo các phân tích khác như: Cảm nhận về Bình Ngô đại cáo, Phân tích đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo, Tư tưởng nhân đạo trong Bình Ngô đại cáo, Đoạn văn phân tích tinh thần độc lập và ý thức dân tộc trong Bình Ngô đại cáo, cùng nhiều bài viết khác.
Nếu 'Nam quốc sơn hà' là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, thì 'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi chính là áng văn hùng vĩ, là tuyên ngôn thứ hai về chủ quyền đất nước. Đây là một tác phẩm cáo nói có tính sáng tạo đặc biệt của tác giả.
Sau khi giặc Minh bị đánh bại, Nguyễn Trãi viết 'Bình Ngô đại cáo' để tổng kết cuộc chiến chống quân Minh, khẳng định độc lập dân tộc. Bài cáo này, một thể loại văn học chức năng, đồng thời là bài văn nghị luận, được viết với lối văn sắc bén, hùng tráng.
Mặc dù quân xâm lược là quân Minh, nhưng tên gọi 'Bình Ngô đại cáo' đã thể hiện ý chí quyết định của tác giả. 'Ngô' ở đây chỉ quân Ngô, một từ ngữ khinh miệt và căm ghét của dân ta. Tên gọi 'Bình Ngô đại cáo' phản ánh quyết tâm tiêu diệt quân Ngô và lòng chiến thắng của dân tộc.
Bài cáo bắt đầu bằng một tư tưởng nhân nghĩa lấy cảm hứng từ triết lý Nho giáo:
'Tôn trọng nhân nghĩa là bảo vệ dân, Trừ ác trước, yên dân mới an lành'.
'Nhân nghĩa' là lòng nhân ái, hành động vì con người, bảo vệ lẽ phải để đảm bảo cuộc sống của mọi người. Sự an lành và phát triển của đất nước phụ thuộc vào cuộc sống hạnh phúc của dân chúng. Vì vậy, lãnh đạo phải đảm bảo 'an dân', loại bỏ cái ác, giữ gìn hòa bình để bảo vệ cuộc sống của nhân dân. Tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đề cập là tư tưởng bảo vệ nhân dân, đấu tranh chống lại sự tàn bạo, với mục tiêu bảo vệ lãnh thổ và cuộc sống của nhân dân.
'Đất nước ta từ lâu đã biết tôn trọng nhân nghĩa, Núi sông biên giới đã chia rõ ràng. Phong tục Bắc Nam đặc trưng khác biệt, Từ triều đại của Triệu, Đinh, Lí, Trần đã xây dựng nền độc lập. Dù có thời gian mạnh yếu khác nhau, Nhưng trong mọi thời đại vẫn có anh hùng hiện diện.'
'Các bài phân tích xuất sắc về tác phẩm Bình Ngô đại cáo'
Nền văn hiến của nước Đại Việt đã tồn tại từ xa xưa, với biên giới rõ ràng, phong tục đặc trưng và một lịch sử phong phú không kém các triều đại ở phương Bắc. Từ triều đại của nhà Triệu, Đinh, Lí, Trần được so sánh ngang hàng với các triều Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc để thể hiện sức mạnh của dân tộc ta. Mỗi thời kỳ có những anh hùng hiện diện, giúp nước ta vượt qua mọi khó khăn. Các trận chiến lịch sử ghi dấu những chiến công anh dũng của quân và dân ta.
'Lưu Cung tham công bị thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải trả giá đắt, Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô, Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã. Những sự kiện xưa đã được ghi chép, Chứng minh sức mạnh của chúng ta vẫn còn.'
Các tướng lĩnh phương Bắc đều phải nhận những kết cục bi thảm trước sự kiên cường của quân và dân ta. Sức mạnh của chúng ta đã tiêu diệt được kẻ xâm lược gian ác. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được thể hiện qua giọng điệu hùng hồn, là biểu tượng của sự tự hào và niềm tin vào sức mạnh của dân tộc.
Những tội ác của giặc Minh đã được tác giả tường thuật trong một bản cáo trạng hùng biện, với những minh chứng rõ ràng. Giặc Minh đã lợi dụng sự yếu đuối của nhà Hồ để thực hiện âm mưu độc ác của mình.
'Nhân dân dưới triều Hồ phải gánh chịu nhiều phiền toái, Dân tộc chịu oán hận với triều chính lục đục. Quân Minh thâm nhập khi nhân dân gặp khó khăn, Còn kẻ phản bội trong nước thì đào đường bán nước với mong muốn vinh quang.'
Triều chính nhà Hồ lúc bấy giờ rối ren, không ổn định, Nhà lãnh đạo không quan tâm đến cuộc sống của nhân dân, Tình hình này khiến 'dân tộc chịu oán hận'. Tận dụng điều đó, quân Minh xâm nhập, bè lũ phản quốc trong nước thì lợi dụng cơ hội để bán nước nhằm mục đích vinh quang và giàu sang.'
Quân Minh đã đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn cùng, Phải sống trong bóng tối của hiểm nguy và đe dọa tử thần. Dân ta bị ép sống trong cảnh khốn khó, Cơ cực với những tàn bạo và bất công từ kẻ thù.
'Người dân bị đốt cháy trên lửa đỏ, Con cái bị chôn dưới vực sâu đen tối. Bịa đặt, lừa dối dân bằng nghìn kế thù địch, Gây ra cuộc chiến tranh kéo dài hai mươi năm. Nhân nghĩa bị phá hủy, đất nước tan rã, Thuế phải nặng nề đến nỗi không thể trả. Người bị buộc phải xuống biển lùng sục mò ngọc, Chán ghét con cá mập dữ dội. Kẻ bị giam vào rừng đi tìm vàng, Thảm cảnh của rừng rậm, của dòng nước nguy hiểm. Đánh bắt thú săn, đặt bẫy cho hươu đen, Mọi nơi đều có mưu đồ. Thảm hại cả loài côn trùng và cây cỏ, Người nghèo khổ thay vì kẻ giàu có sung sướng. Những kẻ tham ăn, những đứa trẻ khát khao, Sự bất công đã làm cho họ đầy lòng thù hận. Xây nhà cửa hôm nay, mai ngày đã bị phá hủy, Lao động vô ích với mạng sống nhọc nhằn. Núi non gánh nặng, nghề nghiệp suy tàn, Sự tan rã của mọi công việc.'
Kẻ thù tàn ác, không có lòng nhân tính, sử dụng muôn vàn kế sách để áp bức đất nước ta. Những người lao động vô tội thương tâm khi bị chúng áp đặt bằng các chiêu trò xảo quyệt để cướp bóc, giết hại. Hành động của quân đội xâm lược thật độc ác, chúng 'đốt cháy nhân dân' như thú vui hoặc 'chôn vùi' họ dưới đất để thỏa mãn sự tàn bạo. Chúng lợi dụng tính mạng của dân ta như trò chơi. Không chỉ bóc lột dân ta bằng thuế phí, quân Minh còn lấy hết các sản phẩm quý hiếm của đất nước để làm hài lòng tham vọng vô đáy của chúng. Dân ta bị bắt xuống biển tìm ngọc, vào rừng tìm vàng, phải đối mặt với cá mập hung ác, dòng nước nguy hiểm. Chúng dựng bẫy, vạch lưới để bắt chim làm áo, đệm và săn hươu đen để tạo vị thuốc bổ. Ngay cả cây cỏ cũng không thoát khỏi sự tàn phá của chúng. Chúng 'tàn phá cả giống côn trùng và cây cỏ', buộc dân ta phải làm việc không ngừng nghỉ, xây nhà, làm ruộng mà 'máu mỡ bấy no nê chưa chán'. Tất cả những hành vi tàn ác đó vẫn chưa đủ để chúng thỏa mãn lòng tham lam. Chúng phá hủy, biến thành 'nghèo khổ', 'tàn tật' các gia đình, tạo ra cảnh tượng tang thương khi những người thân yêu xa nhau, những đứa trẻ mất cha,... Tội ác của quân Minh không thể tha thứ, 'trời Nam Sơn không ghi hết tội', 'biển Đông Hải không rửa sạch mùi' bẩn thỉu của chúng. Sự vô biên của trời Nam Sơn và biển Đông Hải cũng không thể so sánh với sự tàn ác của quân Minh trong suốt hai mươi năm 'gây chiến gieo oán'. Tác giả sử dụng việc liệt kê, phóng đại, câu hỏi 'Lẽ nào thần nhân chịu nổi' cùng các hình ảnh có tính tổng quát và cụ thể để lên án tội ác của quân Minh bằng một tâm trạng căm thù sâu sắc.
Đối diện với sự xâm lược của kẻ thù, anh hùng Lê Lợi đã khơi mào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
'Suy nghĩ lớn như trời cao xanh Hận kẻ thù đến chết với nhau'.
Không thể sống chung dưới bầu trời cùng kẻ thù, Lê Lợi đã tiên phong khởi nghĩa chiến đấu vì đất nước, vì sự bình an của nhân dân. Nhưng vào lúc 'lòng nghĩa đã bùng lên', cũng chính là lúc 'quân thù mạnh mẽ'. Hơn nữa:
'Sáng ngời như tinh tú buổi sớm,
Tài năng rực rỡ như lá thu vàng,
Trong công việc bôn ba, thiếu người đồng lòng,
Nơi hiếm người đạo đức gặp mặt'.
Khi khởi nghĩa ban đầu, anh hùng Lê Lợi phải đối mặt với nhiều khó khăn khi kẻ thù đang mạnh mẽ, tài giỏi và nhân tài hiếm có, thiếu người đồng lòng để đề phòng. Dân số ít, binh lính cạn kiệt, còn thiếu thốn về lương thực. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng vị lãnh tụ vẫn 'cố gắng vượt qua khó khăn', chỉ cần có lòng đồng lòng, đồng lòng của toàn dân thì cuộc khởi nghĩa chắc chắn sẽ thành công. Thiếu quân, dân ta đã dùng cành tre làm cờ, thiếu rượu để thưởng binh, Lê Lợi đã đổ rượu vào sông để tất cả các tướng sĩ đoàn kết uống chén rượu cùng nhau 'một cách ngọt ngào'.
Lê Lợi không chỉ thống nhất và đoàn kết toàn dân mà còn biết sử dụng chiến lược chiến đấu với kẻ thù, 'tận dụng điểm yếu chống lại sức mạnh', 'sử dụng ít nhân lực chống lại đông quân'. Nhưng điều quan trọng nhất là Lê Lợi luôn đề cao tư tưởng nhân nghĩa:
'Áp dụng nhân nghĩa để đánh bại sự tàn bạo,
Sử dụng lòng can đảm để thay thế sức mạnh bạo lực'.
Nhờ vào ý chí kiên cường, vượt qua mọi thử thách và tinh thần chiến đấu quyết liệt mà quân nghĩa đã đạt được những chiến công vẻ vang:
'Dùng lòng trung thành để đánh bại sự tàn ác,
Sử dụng tinh thần can đảm để thay thế sức mạnh hung ác.
Trận Bồ Đằng gió giục sấm sét,
Miền Trà Lân mây tan phăng. Sức mạnh vẻ vang
Đồng lòng hùng cường.
Trần Trí, Sơn Thọ chìm trong tiếng hò mừng chiến thắng,
Lý An, Phương Chính, cầu mong thoát thân. Quân ta đuổi theo kẻ thù dài dài, Tây Kinh trở lại dưới quyền kiểm soát,
Quân lính tiến vào đánh, Đông Đô trở về tay quân ta. Dòng máu Ninh Kiều trở thành dòng sông, lan tỏa hơn muôn dặm
Tuỵ Động phủ đầy nỗi oán trách, nhớ mãi trong ngàn năm. Quân giặc Trần Hiệp phải đầu hàng trước lòng trung kiên của chúng ta,
Một khi kẻ thù Lý Lượng đành phải khuất phục. Vương Thông đối mặt với nguy hiểm nhưng càng giữ chắc thế trận, càng áp đảo kẻ thù
Mã Anh cứu trận vẻ vang, quân ta lập tức trở nên mạnh mẽ hơn'.
Quân ta chiến đấu với sức mạnh và dũng khí quyết liệt, làm tan tác quân địch một cách dễ dàng, nhanh chóng như cắt nát tre, tan biến khói bốc. Bốn tướng Minh Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương Chính nhìn thấy điều này và 'đổ mất can đảm', 'nhẫn nhục đầu hàng', những tướng khác thì thất trận và chết. Các trận Chi Lăng, Mã An, Cần Trạm,... đã khiến các tướng quân Minh phải đầu hàng, tự tử, 'buộc tay xin tha', 'lùng bùng chạy trốn để cứu mạng'. Tinh thần chiến đấu của quân nghĩa được thể hiện qua hai câu văn của Nguyễn Trãi:
'Một trận chiến, không có gì đáng ngạc nhiên,
Nhưng hai trận, địch tan tác như chim về tổ'.
Nhờ vào ý chí quật cường, quân nghĩa đã khiến 'Thượng thư Hoàng Phúc trói tay tự xin hàng', đô đốc Thôi Tụ thì 'dâng tờ tạ tội'. Chiến thắng của quân ta đã khiến 'sắc phong vân phải thay đổi', 'ánh mặt trời vàng phải nhợt nhạt', đường đi của quân giặc đã 'đầy chất đống', máu của chúng 'trôi đỏ sông', 'đen đậm nơi ấy', quân ta đã giành được một chiến công đáng kinh ngạc và oai hùng không thể phủ nhận. Từ một người đến từ 'hoang dã', anh hùng áo vải Lê Lợi đã trở thành một nhà chỉ huy xuất sắc với các chiến thuật tài ba. Điều đặc biệt là, ông đã thể hiện ý chí sắt đá, vượt qua mọi trở ngại và hành động nhân từ bằng cách cấp cho Mã Kì, Phương Chính năm trăm chiếc thuyền để ra khơi, phát cho Vương Thông, Mã Anh một số ngựa để về nước mặc dù chúng vẫn 'trơ mắt chứng kiến', 'trái tim run rẩy'. Chúng không thể tin rằng lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa lại mở ra một con đường để chúng sống sót, một con đường để trở về. Đó là 'chiêu mộ kỳ diệu' của Lê Lợi để nhân dân được 'nghỉ ngơi' và cũng để duy trì hòa bình giữa hai nước.
Miêu tả các trận đánh của quân ta, tác giả đã sử dụng những từ ngữ mạnh mẽ như 'trơ mắt chứng kiến', 'trái tim run rẩy' ..., những từ chỉ mức độ như 'đầy chất đống', 'trôi đỏ sông', 'đen đậm nơi ấy', 'đáng sợ vỡ mật',... và liệt kê thời gian, địa điểm các trận đánh để nhấn mạnh sự thất bại thảm hại của giặc Minh. Ông thể hiện sự mỉa mai đối với kẻ thù khi gọi họ là 'lũ hèn nhát Tuyên Đức', 'bọn thất bại Thạnh, Thăng'.
Phần cuối cùng của bài cáo là tuyên bố, khẳng định nền độc lập của dân tộc:
'Từ nay về sau sẽ vững vàng
Giang sơn từ đây sẽ đổi mới
Bất khuất bao giờ, lại thắng lợi
Mặt trời hằng chiếu, lại rạng rỡ
Ngàn năm vết nhục sẽ rửa sạch
Muôn đời nền bình yên vững chắc
Cả Âu cả cả thế giới
Đều biết rõ
Dưới bóng tên anh hùng, chiến thắng oanh liệt ngàn năm
Biển cả bao la, thanh bình vô song, mang lại sự phồn thịnh cho mọi nơi.
Tin vô đạo!
Một tinh thần bất khuất, một công lớn không thể nào quên,
Cho đến muôn đời.'
Dập yên kẻ thù Minh, tổ quốc bắt đầu hành trình đổi mới, từ sự bế tắc tới sự thông suốt, từ bóng tối đến ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Đó là quy luật tất yếu của lịch sử, quy luật phát triển thịnh vượng và suy tàn của mỗi quốc gia. Cuộc nổi dậy Lam Sơn đã mở ra một thời đại mới, xây dựng đất nước Đại Việt dưới triều đại của vị vua Lê Lợi. Nhờ 'sự trợ giúp từ trời đất tổ tông linh thiêng', chiến thắng vẻ vang như vậy mới được hình thành. Sức mạnh và sự hỗ trợ của người thần linh cùng với sức mạnh của quân nghĩa Lam Sơn đã đuổi giặc Minh, làm cho quê hương ta được làm sạch khỏi dấu vết của kẻ thù. Một đất nước chỉ có thể phát triển bền vững nếu có các chính sách hợp lý chăm sóc đời sống của nhân dân.
Với cấu trúc chặt chẽ, sự cân bằng hài hòa trong từng câu văn và diễn đạt chính xác, 'Bình Ngô đại cáo' không chỉ tố cáo tội ác của quân Minh mà còn tôn vinh chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và nhà anh hùng Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã nâng cao tư tưởng nhân nghĩa, 'yên dân', 'trừ bạo' và tư duy lấy dân làm gốc để phát triển dân tộc ngày càng hưng thịnh.