I. Giới thiệu ngắn gọn về Nguyễn Khải và tác phẩm ngắn Một người Hà Nội để dẫn đến nội dung (tâm tư của tác giả) thông qua đoạn trích.
II. Vị trí của đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần 7, cuối truyện, trước đoạn này, tác giả “thỉnh thoảng phải đến Hà Nội đều ghé thăm cô Hiền”. Mọi người đều già, lớp người Hà Nội như cô đã mất, kể cả chồng cô; chỉ còn lại vài người, trong đó có cô đã ngoài 70 tuổi “nhưng cô vẫn là người của ngày nay, một người của Hà Nội ngày nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn”. Tiếp theo là đoạn trích, và sau đó, là đoạn cuối, sau đoạn trích là câu chuyện về cây si bị trốc gốc bên đền Ngọc Sơn và suy tư sâu xa của cô Hiền.
+ Ý kiến về nội dung của đoạn trích
- Đọc phần đầu của đoạn trích, dù không phải người Hà Nội, chưa bao giờ đến Hà Nội vào cuối đông, nhưng đã học địa lý Việt Nam, ai cũng sẽ nghĩ rằng thiên nhiên, khí hậu Hà Nội không mấy thay đổi. “Trời rét, mưa rây” của thiên nhiên, khí hậu Hà Nội không mấy thay đổi “Trời rét, mưa rây” của những ngày cuối đông, gần Tết khiến người nơi xa, những người Hà Nội cũ bỗng cảm nhận:
Thanh sắc chưa phai màu lệ cũ
Ảnh hình thêm sâu sắc mối thương xưa
- Bỗng như thấy Bà Huyện Thanh Quan trong Thăng Long thành hoài niệm.
- Bỗng như thấy Lưu Trọng Lư trong bài thơ Ông đồ.
- Bỗng như thấy Thạch Lam trong Hà Nội ba mươi sáu phố phường.
Và bỗng như “bà lão (nếu là một thiếu nữ thì phải hơn) lau dọn bát bày hoa mai”, điều cuối cùng của người Hà Nội “thưởng thức vẻ đẹp của một cành mai” không kém gì thưởng thức một cành đào trong những ngày mừng Tết.
- Vẻ đẹp văn hóa ấy sẽ mãi được kính trọng dù trong bối cảnh chiến tranh, điều đó là không thể tránh khỏi. Nhưng những gì làm đau lòng là phần tinh thần của Hà Nội đã bị “làn sóng tâm lí, sự cạnh tranh, lòng tham của những người vừa thoát khỏi cái chết, khổ đau” đẩy xa tâm trí họ. Họ chỉ biết “lên tàu đến Lạng Sơn để buôn bán đủ thứ” để xây nhà, mua xe, các tiện ích hiện đại, ăn nhậu ở nhà hàng, quán bar... mà quên mất bản sắc lối sống của ngàn năm Thăng Long - Hà Nội.
- Khi nghe cô Hiền nói:
“Nhiều người nói Hà Nội đã sống lại”. Nhân vật “tôi” đã bổ sung rõ hơn:
“Có phần đúng, nhưng chỉ là phần thể xác, còn phần tinh thần thì chưa. Chỉ cần nhìn... ở ngoài đường là rõ ràng”.
“Có phần đúng, chỉ là phần thể xác thôi”, tác giả đã xác định và nhấn mạnh. Đúng vậy. Hà Nội xã hội chủ nghĩa được xây dựng từ năm 1954, sau Hội nghị Genève. Kể từ khi quân Pháp thất bại và rút lui, Hà Nội đã thay đổi. Trong cuộc chiến thống nhất đất nước, bom đạn Mỹ đã làm hủy hoại một phần của Hà Nội, trong đó phố Khâm Thiên là một trong những hình ảnh đáng sợ nhất. Mười lăm năm sau, sau ngày 30/4/1975, nhà cửa đẹp, phố xá sầm uất; mọi người mặc đẹp, đã làm thay đổi “phần thể xác” của Hà Nội. Đúng vậy, và đang tiếp tục thay đổi lớn hơn, ngày càng hoành tráng và đẹp hơn.
“Nhưng phần tinh thần thì chưa”. Để minh chứng cho điều này, tác giả đã chỉ ra một nơi cụ thể, một cách biểu hiện: “trên đường phố”. Đúng vậy. Bản chất, sâu sắc của tâm hồn không phản ánh trong những buổi lễ trang trọng được tổ chức thỉnh thoảng với không khí lễ hội, mà là trong “buôn bán, ăn uống, nói chuyện “trên đường” hàng ngày. Ngay sau đoạn trích, tác giả đã chứng minh cụ thể nhận xét của mình về sự thiếu lễ phép của giới trẻ khi ông đi xe đạp trên đường Phan Đình Phùng; về sự vô tâm hay lòng tham của người Hà Nội mà ông đã gặp. Những lời lẽ, cách ứng xử tại Hà Nội mà tác giả đã trải qua không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác. Nếu điều đó đúng, thì rõ ràng Hà Nội vẫn chưa thay đổi tâm hồn. Và đương nhiên, người Hà Nội vẫn chưa phải là tiêu chuẩn của mọi giá trị, không phải là mẫu người mà cả nước phải theo đuổi.
III. Chắc chắn lòng đau xót của tác giả khi viết điều này rất lớn. Và người đọc, những người dân Việt, cũng chia sẻ nỗi đau đó không kém.
- Cảm ơn tác giả đã dũng cảm nói lên sự thật đó, không chỉ nhắc nhở người Hà Nội mà còn nhắc nhở mọi người dân của đất nước về việc quan tâm đến phần tinh thần, để làm cho nó ngày càng tươi mới: Tinh thần Việt!