Mẫu 1
Lời giải chi tiết:
Phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ
Thơ Đường vốn nghiêm ngặt về niêm, luật, bố cục. Song những quy luật khắt khe ấy không hề trói buộc được các bậc thánh thi như Đỗ Phủ. Dưới ngòi bút của ông, bài thơ vừa tuân thủ niêm luật chặt chẽ, lại vừa bay bổng tự do tạo nên vẻ đẹp đa dạng giống như vẻ đẹp của viên ngọc được soi rọi từ nhiều phía khác nhau. Bài Thu hứng không nằm ngoài đặc điểm trên.
Theo luật Đường thi, một bài thơ thất ngôn phải có bố cục 4 phần: Đề, thực, luận, kết. Bài Thu hứng cũng có bố cục 4 phần chặt chẽ. Hai câu đề giới thiệu khái quát cảnh Vu Sơn, Vu Giáp. Hai câu thực tả chi tiết cảnh núi Vu, kẽm Vu. Hai câu luận là nỗi lòng nhớ quê của tác giả nảy sinh khi ngắm cảnh trên. Hai câu kết trở lại một nét sinh hoạt bình thường nhưng đã trở thành một hình ảnh giàu sức gợi cảm trong thơ Đường: Cảnh giặt áo mùa thu. Cảnh này tô đậm thêm nỗi lòng nhớ quê gợi ra trong hai câu luận khiến bài thơ khép lại về chữ nghĩa nhưng lại mở ra về nội dung trong tâm hồn người đọc.
Xét theo nội dung miêu tả chung, bài Thu hứng lại có bố cục hai phần: Bốn câu đầu tả cảnh, cảnh núi sông của vùng Quỳ Dân, thượng nguồn Trường Giang, nơi Đỗ Phủ lạc tới vì chạy giặc An Lộc Sơn. Bốn câu dưới là tả tình, tình của kẻ lữ thứ tha hương. Cảnh và tình ấy tạo nên sự thống nhất của bài thơ.
Bốn câu đầu bài thơ tả cảnh mùa thu
Trước tiên đây là cảnh mùa thu của một nơi xác định. Người đọc biết được rằng đây là tả cảnh vùng Quỳ Dân trước thượng nguồn sông Trường Giang. Không chỉ ở địa danh Vu Sơn, Vu Giáp được nhắc tới ở câu thứ hai mà chính là ở cảnh vật đặc trưng do vùng này được miêu tả trong bài thơ. Đó là cảnh rừng phong sương móc trắng, là cảnh kẽm Vu vách núi dựng đứng khí trời mù mịt, là núi Vu cao vút hiểm trở. Cả một bức tranh phong cảnh hùng vĩ mà âm u hiện ra qua ngòi bút Đỗ Phủ. Bức tranh này có lớp lang chặt chẽ, hiện dần theo bước chân người. Thoạt đầu là cảnh rừng phong trắng sương mù. Vượt qua cánh rừng này, Vu Sơn, Vu Giáp hiện ra qua một nét phác họa chung ở câu thơ thứ hai. Câu thứ ba, thứ tư đặc tả hai cảnh tiêu biểu nhất của núi Vu. Như vậy, bức tranh có toàn cảnh và cận cảnh, có bao quát và chi tiết chứng tỏ một ngòi bút miêu tả điêu luyện, linh hoạt.
Cái thần của bức tranh chính là cảm xúc tác giả gửi trong từng nét vẽ lan tỏa vào lòng người đọc. Câu thơ thứ nhất bảy chữ, có hai chi tiết miêu tả, chi tiết nào cũng gợi nỗi buồn, từ cái lạnh lẽo của màu trắng xóa của sương móc bao phủ khắp nơi, từ cái tang thương của rừng phong tiêu điều. Còn cái hiu hắt của nơi thu ở câu thứ hai càng làm tôn lên nỗi buồn bàng bạc thấm đượm trong câu trên. Hai câu thơ, ba chi tiết miêu tả, nỗi buồn ngày càng rộng càng sâu khiến cho cảnh vật hùng vĩ mà đau buồn, bí hiểm mà u hoài. Tới hai câu ba bốn, cảnh vật vừa có sự nhất quán với hai câu trên, vừa có sự phát triển. Trong khi đặc tả núi Vu, kẽm Vu, mỗi nơi tác giả tả một chi tiết, nhưng cảnh vật sống động hẳn lên. Sóng thi “lãng kiêm thiên dũng” (vọt lên tận lưng trời) vừa vẽ lên chiều cao thăm thẳm của kẽm Vu, vừa tạo sự chuyển động dữ dội, mạnh mẽ. Cảnh đám mây “Sa sầm giáp mặt đất” không chỉ tả được cái độ cao của cửa ải trên núi Vu mà còn vẽ được sự giận dữ của mây, của núi sông và trời, mây và núi không còn trong trạng thái tĩnh lại, u hoài như cảnh vật hai câu thơ trên mà đang chuyển động với một nội lực lớn lao, tạo nên vẻ đẹp hoành tráng cho bức tranh. Hai nền cảnh đó bổ xung cho nhau, tạo nên sự thống nhất đa dạng của cảm xúc toát ra từ bức tranh: trầm uất và bi tráng. Đó cũng là phong cách thơ Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối đời. Đứng trước cảnh sắc ấy, một người giàu tình cảm như Đỗ Phủ làm sao không nhớ quê được.
Chính sự vận động nội tại đó, bốn câu thơ sau xuất hiện thật tự nhiên, hợp lẽ. Bốn câu thơ sau tả tình nhưng không xa rời cảnh, tình và cảnh quấn quýt với nhau. Hai câu thơ 5,6 biểu hiện sinh động lòng nhớ quê với nhiều thủ pháp sinh động. Trong câu 5, tình và cảnh như thống nhất: hoa cúc nở mà trông như cảnh hoa bằng trước mắt hư ảo, chập chờn. Hiện tại và quá khứ như nối liền: “giọt lệ ngày trước” bỗng rơi cùng giọt lệ hôm nay. Cái trục nối liền ấy, tạo ra sự đồng nhất, đó là hai chữ “lưỡng khai” với nhiều nghĩa hàm ẩn, khiến cho hình ảnh cúc và lệ trở nên đa nghĩa. Hình ảnh con thuyền trong câu 6 cũng được tạo nên cùng một cảnh như hình ảnh ở câu 5. Chữ “cố” cũng tạo nên nghĩa hàm ẩn: vừa là buộc con thuyền lẻ loi nơi nhà thơ đang sống ở lại nơi đây, vừa có nghĩa là thắt lại, gói lại nỗi lòng thương nhớ quê.
Những cảm xúc dồn dập được miêu tả trong câu 5, 6 tưởng như sẽ được tả trực tiếp và nâng cao hơn ở hai câu kết. Nhưng đến đây, bài thơ bỗng từ tả tình chuyển sang tả cảnh sinh hoạt ngoài đời. Cảnh mọi người nhộn nhịp may áo rét, giặt giũ áo cũ. Tưởng như hai cảnh này không ăn nhập với tình kia, tưởng như ý bài thơ bị lạc, song không phải như vậy. Đây là một thủ pháp dồn nén tình cảm vào bên trong hình ảnh để cho lời thơ ý thơ thêm sâu sắc hơn, có sức rung động mạnh hơn đối với người đọc. Âm thanh đập áo vốn đã là một âm thanh có sức gợi cảm lớn trong thơ cổ Trung Quốc, gợi nhớ tới người thân đi xa, diễn tả một nỗi lòng nhớ thương chờ đợi. Bạch Cư Dị đã tả nỗi lòng của người thiếu phụ sau khi đêm tháng tám, tháng chín nghe tiếng chày đập lụa mà “sáng ta e bạc cả đầu”. Cho nên sự xuất hiện tiếng chày trong bóng chiều tà ở đây tạo nên một dư âm vang vọng cho cả bài thơ.
Nỗi nhớ quê tha thiết của Đỗ Phủ trong một mùa thu tao loạn được bộc lộ trong bài thơ này không chỉ là tâm trạng của một người? Nó là nỗi lòng của trăm họ đang lầm than vì cảnh chiến tranh, giặc giã liên miên nên nhà thơ đang phải từ giã quê hương, phiêu bạt nơi góc biển chân trời.
Mô hình 2
Lời giải chi tiết:
Thu hứng (bài số 1) của Đỗ Phủ là một bài thơ đặc sắc, đậm chất triết học, sâu lắng, tinh tế. Trong bài thơ này, sự tương hợp giữa tâm và cảnh, thi và họa, động và tĩnh là không thể phân biệt rõ ràng.
Chúng ta có thể tạm chia bài thơ thành hai phần: bốn câu đầu là cảnh thu và bốn câu sau là tâm trạng của nhà thơ. Tuy phân chia như vậy phù hợp về mặt hình thức, nhưng chưa thể hiện được mối quan hệ sâu sắc giữa hai phần của bài thơ. Trong thơ cổ, đặc tính của thơ Đường thường là sự đồng nhất giữa con người và vũ trụ (“Thiên nhân tương đồng”). Cái “tôi” (tiểu ngã) chỉ là một phần của cái “ta” vũ trụ (đại ngã). Do đó, các nhà thơ cổ thường nói về mối quan hệ này. Đó là “Tâm nhập vào cảnh” (Vương Xương Linh), “Lòng nhập vào cảnh” “Tình dĩ cảnh hội” (Yên Hoàng Đạo) “Tình bất gặp cảnh”, “Cảnh dĩ tình hợp”, “Tình dĩ cảnh sinh” (Vương Phu Phi). Ngay từ bốn câu đầu, qua những nét bút tả cảnh, tâm trạng của nhà thơ đã được thể hiện rõ. Dù chỉ có điều, cảnh ở đây dường như được miêu tả bằng những nét bút có phần rõ ràng, “khách quan” hơn so với bốn câu thơ sau. Bài thơ có thời gian: mùa thu; có địa điểm: Vu Sơn, Vu Giáp (thuộc thượng sông Trường Giang, vùng Quý Châu thuộc tình Tứ Xuyên). Cảnh ở đây cũng được biến hóa với màu sắc hùng vĩ, độc đáo: núi non hiểm trở, sóng bọt lưng trời, mây sa mặt đất. Cảnh vật hiện lên như trên một bức tranh di chuyển nhanh. Từ rừng phong tiêu điều với sương móc trắng xóa (Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm), đến núi Vu và kèm vu hiu hắt, cho đến những đợt sóng bọt lên lưng trời giữa dòng sông rồi đứng lại ở những dám mây sa sẩm giáp mặt đất tại cửa ải. Bốn câu thơ này cũng làm ta nghĩ đến những bức tranh thủy mặc với lối vẽ chấm phá tài tình. Cảnh vật hiện lên trong “tâm”, trong “hồn” của nó. Nhưng sau bức tranh đó đã ẩn chứa bao nhiêu tâm trạng. Tâm trạng ấy thể hiện ở sự lựa chọn của cảnh vật. Nhà thơ không đặt mục tiêu khám phá đối tượng mà mình quan sát (bên trong hoặc bên ngoài) mà chỉ là sắp xếp, chỉnh sửa nó cho phù hợp với sự cảm nhận tinh tế. Thơ cổ không phân biệt rõ ràng chủ thể và khách thể. Ngay từ nét chấm phá đầu tiên “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm” đã mở ra hướng lựa chọn. Cảnh tượng móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng phong làm ta nghĩ đến những rừng phong, cây phong khác trong thơ cổ. Cây phong trong thơ Đường thường được liên kết với nỗi buồn, với sự chia ly. Trong Tì bà hành (Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu), trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có “Rừng phong thu dã nhuốm màu quan san” đều hiu hắt trong mắt nàng Kiều.
Những nét vẽ cảnh tiếp theo dường như càng làm nổi bật thêm nét hoang vắng, hiu hắt, buồn bã trong tâm hồn nhà thơ. Mặc dù cảnh vật ở đây cũng có nét hùng vĩ nhưng nét hùng vĩ không lấn át được vẻ buồn, tàn tạ, không làm tan biến cái buồn, hiu hắt lan tỏa từ núi đến rừng.
Hai câu tiếp theo tương phản nhau về ý nghĩa và lời, tạo ra cảnh đối lập trong bức tranh “Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng - Tái thượng phong vân tiếp địa âm” (Lưng trời sóng rợn lòng sông thám - Mặt đất mây đùn cửa ải xa) mang lại ấn tượng trái ngược: Cảnh vừa dữ dội, hoành tráng nhưng lại u ám, bị kẹt cằn không thể thoát ra. Đây thực sự là một “tâm cảnh” trong con mắt của người xa quê, nhớ quê, trái tim buồn rối, đau đớn, không yên tâm khi nhìn về quê hương và nhìn ra thế gian. Kim Thánh Thân có lẽ đúng khi nhận xét rằng: “nhìn xuống sông, chỉ thấy sóng cao vút lên trời, nhìn lên ngọn đèo, chỉ thấy gió mây mịt mờ bao trùm đất đai. Thực sự là đau đớn, buồn bã, khiến người ta cảm thấy tuyệt vọng”.
Bốn câu sau đó, tác giả tiếp tục phát triển cảm xúc của mình. Ở đây, nỗi lòng được thể hiện mạnh mẽ hơn, cụ thể hơn nhưng vẫn sâu lắng, tinh tế. Cái nhìn trừu tượng đã biến hóa những sự vật cụ thể. Tác giả đề cập đến hoa cúc, đến con thuyền nhưng chúng là “tâm” hay là “cảnh”, thật lòng không thể phân biệt. “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ” (Khóm cúc nở hoa hai lần: những giọt lệ ngày trước) và “Cô chu nhất hệ cố viên tâm” (Con thuyền lẻ loi buộc chặt tâm lòng nhớ vườn củ), ở đấy lời ít ý nhiều, không rõ hoa cúc nhỏ lệ hay thi nhân nhỏ lệ bên khóm cúc, không hiểu dây buộc thuyền hay dây thắt lòng người. Hồ Sĩ Hiệp cho rằng những câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: “Cúc đã nở hoa hai lần và đã hai lần làm chảy dòng lệ cũ” hoặc có thể hiểu “Nhìn cúc nở mà tưởng như cúc đã nhỏ lệ”. Dù hiểu cách nào thì cũng thấy rằng ở đây “cảnh” đã trở thành “tâm”, đã “hợp” vào “tâm”. Tác giả đã đồng nhất: tình và cảnh, hiện tại và quá khứ (giọt lệ hiện tại cũng là giọt lệ quá khứ), sự vật và con người (sợi dây cụ thể và sợi dây lòng). So sánh với hoàn cảnh nhà thơ có thể hiểu Đỗ Phủ từ khi rời thành phố đến Quý Châu đã trải qua hai năm, trải qua hai mùa thu. Dòng “lệ cũ” của nhà thơ không chỉ “tuôn” ra một lần mà còn rất nhiều lần. Và thật sự như có người nhận xét trong thơ ông già Thiếu Lăng đã lão hóa chốn thành thị, cảm nhận thời hoa lệ...
Hai câu thơ cuối cùng của bài thơ này thật độc đáo, mở ra nhiều ý nghĩa. Trong thơ Đường, hai câu cuối thường là tỏ lòng, diễn đạt trực tiếp cảm xúc nhưng ở đây tác giả lại đưa nó về cảnh khách quan bên ngoài. Tuy nhiên, nếu ở đoạn đầu, cảnh khách quan là “tĩnh” thì ở đây lại là “động”. Cảnh vui vẻ hơn trong không khí “rộn ràng dao thước để may áo rét’’ và tiếng chày đập áo dồn dập về chiều trên thành Bạch Đế. Nhịp thơ dường như cũng nhanh hơn, gấp hơn. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, tâm trạng của nhà thơ chưa chắc đã có sự thay đổi. Vì góc nhìn của nhà thơ vẫn là cái nhìn trong ánh chiều hắt hiu. Tiếng đập áo buổi chiều trên thành Bạch cao ấy (Thành Bạch chày vang bóng ác tà) dễ đưa người ta đến những liên tưởng buồn. Nó dường như cùng hòa vào “gam” nhạc buồn của tiếng đập áo đêm trăng của người chinh phụ nhớ chồng trong Đảo y thiên của Lí Bạch (Chiếc áo đêm trường đập bóng trăng), hay tiếng chày đập áo của người phụ nữ trong mùa thu trong thơ Bạch Cư Dị(Thu đến nhớ chồng đập lụa, gió trăng não lắm đá chày ơi) Tiếng chày ấy đang báo hiệu một mùa đông đến gần, mùa đông với một ( thiếu cơm, thiếu áo, không nhà, ở nhờ trên đất khách và tấm lòng thì luôn nặng trĩu nỗi lo và nỗi nhớ.
Như vậy, trên nền của cảnh thu với rừng thu, không khí thu, hoa thu, tiếng thu, nhà thơ đã kết hợp với tâm trạng của mình, một tâm trạng đậm chất quê hương, đầy nỗi buồn, đau đớn, lòng lo về thế sự.
Mẫu 3
Lời giải chi tiết:
Rừng ngọc mơ hồ lá rụng,
Núi Vu, dãy Giáp khí âm u.
Sông lơ lửng ba lãng kiêm trời dung,
Thượng phong mây trải đất xa khu.
Hoa cúc đôi lần nở, mắt nhỏ lệ,
Thuyền lẻ loi buộc tình nhớ chưa tan.
Trong nỗi giá lạnh, gọi nhớ đao đoạn,
Bạch Đế thành, đêm đầu nỗi nhung.
Đứng tại Quỳ Châu, vẻ đẹp vây quanh. Bình minh trên núi Vu, màn sương lay động, lá phong rơi vương vàng, trên dãy núi Giáp, hơi âm u mịt mùng, đủ để cảm nhận cái lạnh se sắt. Ở xa xa, sóng nước vỗ dội chân trời. Trên đỉnh núi, mây trắng bồng bềnh gặp đất. Nhớ lại chính mình, tôi nhớ đến những ngày lênh đênh trên đất lạ, hai mùa thu chắc đã đổi, khóm cúc ở nhà chắc cũng đã nở hoa hai lần, khi trở về, tôi sẽ chắc chắn cảm thấy tiếc nuối trong nước mắt.
Hiện tại tạm trú ở đây không phải là vĩnh cửu, nhưng luôn khắc ghi quê hương, lòng mong mỏi nhà mình như con thuyền lênh đênh giữa dòng sông, đôi khi buộc chặt, chưa lúc nào tan ra. Nhưng ngày ấy là khi nào? Hiện tại mùa thu sắp kết thúc, mùa đông đang đến gần, mỗi chiều trên thành Bạch Đế, tiếng chày đập vải vang vọng, như muốn giục những người quên việc may áo rét. Điều này thực sự đáng buồn biết bao (Ngô Tất Tố dịch).
Dịch thơ:
Rừng phong lác đác lá rụng,
Núi Giáp, dãy Sơn khí u mịt mùng.
Sông nghiêng nghiêng ba lãng trời dạy,
Mây trải đất xa khu lòng say.
Hoa cúc hai lần nở, mắt nhỏ lệ,
Thuyền lẻ loi buộc tình nhớ chưa tan.
Lạnh lùng kêu gọi nhớ đao đoạn,
Thành Bạch, đêm buồn nỗi nhung.
Nguyễn Công Trứ dịch
“Hứng” nghĩa là “nổi lên” (hứng). Đối với người đẹp vào mùa xuân, cảm xúc thì nồng nàn, tâm hồn sôi động; nhưng đối với mùa thu, tình cảm lại sâu lắng, xa xôi; dù có núi sông rừng núi, gió khói, mây sương, sắc cò, hương hoa, những gì mắt nhìn, tai nghe, đều không thể không kèm theo tấc lòng cùng chứa đựng. Người có trái tim chân thành gặp gỡ cảnh đẹp, đó cũng là nơi mà kẻ u tâm chia sẻ niềm hoài bão. Tại sao lại mãi nhìn về nơi Vu Sơn, dãy Giáp, nhưng lại ngước mắt nhìn sông, chỉ thấy sóng nước vỗ cao ngút trời, và nhìn lên ải, chỉ thấy mây mù mịt mờ trên đất?
Thật đau đớn và bi thương! Khiến con người cảm thấy hoàn toàn mất đi khí lực. Một giải giảng xâu suốt tám bài thơ, kết thúc bằng câu cuối “giai nhân thập thúy” (người đẹp nhặt lóng chim thúy), sau đó than thở về “đầu trắng ngâm trong khổ cúi buồn”.
“Lưỡng khai” (nở hai lần) được ám chỉ là “hoa cúc” (khóm cúc), nhưng ít người biết rằng “lưỡng khai” đều là “nước mắt sau này”! “Cô chu” (thuyền lẻ loi) bắt buộc phải “nhất hệ” chỉ vì “lòng nhớ quê nhà”! Chữ “lệ” dùng chữ “nước mắt”: quả thật diệu kỳ! Chỉ khi chính mình đứng trong hoàn cảnh đó, mới thấu hiểu được. Câu 7 nói về “nơi nơi” (xứ xứ) chính là “buộc lòng” (nhớ nhà) đến một nơi (nhất xứ); thành Bạch Đế ở phía đông Quý Phủ: đây là cách nói gần nhưng thực ra rất xa. Khi nghĩ đến “dao thước” (đao xích) trong nhà, nhưng trong tai chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải tại thành Bạch Đế; người lữ khách xa nhà cảm thấy nỗi khổ lưu lạc càng thêm. Trong câu “châm thành”, chữ “thành cao” làm ta thấy rằng tai nghe xa, mắt nhìn xa biết bao nỗi khổ của người xa quê hương. Các câu 3, 4 là tiếp nối của câu 1, 2; và câu 5, 6 chuyển sang câu 7, 8: như vậy sẽ thấy rằng giải thích của tôi không sai.
Mẫu 4
Lời giải chi tiết:
Đỗ Phủ (712 – 770) là một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc thời nhà Đường. Mặc dù không nổi tiếng từ đầu, tác phẩm của ông đã ảnh hưởng đến văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Được gọi là Thi sử và Thi thánh, ông được biết đến với hàng ngàn bài thơ sâu sắc, phản ánh sự kiện lịch sử và tình yêu nước. Bài thơ 'Thu hứng' của ông là một ví dụ.
Bài thơ này được sáng tác vào năm 766, khi Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong, nhưng đất nước vẫn đang trong tình trạng khó khăn. Trong bối cảnh đó, 'Thu hứng' thể hiện sự buồn bã và lo lắng của nhà thơ. Mô tả mùa thu ảm đạm và cảm xúc trĩu nặng u sầu.
Một vài nét miêu tả đã thể hiện được vẻ đẹp của mùa thu ở Quý Châu:
Rừng phong mênh mông, sương hiu quạnh,
Vu Sơn, Vu Giáp, khí hào sâm.
Chiều thu ở rừng phong làm xao xuyến tâm hồn con người, và những cảnh vật thiên nhiên khiến tâm trạng càng trở nên u sầu hơn.
Ở hai câu thứ ba và thứ tư, nhà thơ mô tả cảnh thu từ cao đến thấp:
Sông rợn nguyên bản, lòng sâu thăm,
Mặt đất mây che, cửa ải xa xa.
Sông ở thượng nguồn có nước xiết, cảnh sắc hùng vĩ, và mây mù dày đặc làm cho cảnh sắc trở nên u ám hơn.
Bốn câu thơ này tạo nên một bức tranh mùa thu rộng lớn, thể hiện cảm xúc và cảnh vật một cách sinh động.
Ở hai câu tiếp theo, nhà thơ mô tả sự buồn bã của mùa thu:
Hoa cúc rụng, lệ tuôn dài,
Thuyền buộc chặt, ước mơ tan nát.
Mỗi lần hoa cúc rụng, nhà thơ lại nhớ lại quê hương và cảm thấy đau đớn.
Cuối cùng, nhà thơ mô tả âm thanh của mùa thu:
Chày đập vải, bóng hoàng hôn:
Thợ may ngừng, thành Bạch u ám.
Âm thanh của chày đập vải tạo nên một không khí vui vẻ nhưng không đủ để xua tan đi nỗi buồn của nhà thơ. Tiếng chày đập vải như nhắc nhở mọi người rằng mùa thu đã đến và cần phải chuẩn bị cho mùa đông.
'Thu hứng' là một bức tranh mùa thu tuyệt vời của Đỗ Phủ, thể hiện cảm xúc sâu sắc và sự đau đớn của nhà thơ trong hoàn cảnh khó khăn.