
Đề bài
Đề bài: Phân tích bản Tuyên bố Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Lời giải chi tiết
Mùa thu năm 1945, khắp nơi trong nước chúng ta tràn ngập trong niềm vui sướng phấn khích của cuộc cách mạng tháng Tám thành công, đã gỡ bỏ khỏi vai của người dân Việt Nam những gánh nặng nô lệ và áp bức, dẫn họ bước qua ngưỡng cửa tối tăm tới vùng sáng tự do độc lập. Trong buổi sáng ấm áp của ngày 2 tháng 9, dưới ánh nắng vàng rực rỡ, trước hàng triệu cánh tay của nhân dân đứng trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, đánh dấu sự ra đời của một Việt Nam mới, một quốc gia tự do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên ngôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết với tâm trạng hạnh phúc nhất. Với trái tim và trí tuệ, với những cảm xúc mãnh liệt, ông đã truyền đạt đến triệu trái tim nhân dân những rung động sâu xa và thấm thía, đồng thời khẳng định một cách mạnh mẽ và hào hùng với thế giới về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của quốc gia ta.
Toàn văn bản Tuyên ngôn không dài, chỉ gói gọn trong khoảng chưa đầy một ngàn chữ nhưng vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản Tuyên ngôn được chia thành ba phần rõ rệt, mỗi phần truyền đạt một ý, liền mạch với nhau theo một cấu trúc chặt chẽ mạch lạc...
Phần đầu tiên của bản Tuyên ngôn nêu lên những chân lý về nhân quyền và dân quyền. Tác giả trích dẫn lời hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, bản “Tuyên ngôn độc lập' của Mỹ và bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền' của Pháp có ý nghĩa sâu sắc. Bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ ra đời sau khi nước Mỹ giành được độc lập thành công. Bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” cũng ra đời trong chiến thắng của cách mạng Pháp, cuộc cách mạng của những người dân và nông dân phản kháng lại áp bức, bất công. Lời nói của hai bản tuyên ngôn này không chỉ nêu lên những chân lý mà còn đại diện cho những cuộc cách mạng tiên tiến của những quốc gia có ảnh hưởng lớn trên thế giới, mang tính công pháp quốc tế, khiến cho không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn của chúng. Ta có thể thấy sự hiểu biết và cân nhắc kỹ lưỡng của Chủ tịch trong việc trích dẫn những chân lý đó. Hơn nữa, ông còn sáng tạo khi áp dụng: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả dân chúng trên thế giới đều được sinh ra bình đẳng; mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền hạnh phúc và quyền tự do'. Ông đã chuyển từ khái niệm về con người sang khái niệm về dân tộc một cách tổng quát và thuyết phục. Điều đáng lưu ý hơn là ở đoạn đầu tiên này, cũng chính là lời trích dẫn của bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” đã phản chiếu sức mạnh và tiềm năng của Tuyên ngôn độc lập. Bởi vì chính phủ Pháp, chính phủ bảo vệ cho “Tuyên ngôn nhân quyền' đầy đủ lý do, lại đang thực hiện những hành động ngược lại; “Thế mà hơn tám mươi năm nay, thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do... hành động của chúng trái ngược hoàn toàn với nhân đạo và chính nghĩa”. Rõ ràng qua cách lập luận như thế, một sự thật được phơi bày một cách rõ ràng: bản chất của thực dân Pháp ở Việt Nam là hoàn toàn trái ngược với nhân đạo và chính nghĩa, kết thúc phần này là một câu khẳng định ngắn gọn và thuyết phục.
Mở rộng hơn, phần hai liệt kê ngắn gọn và đầy đủ những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trên đất nước ta trong suốt gần một trăm năm đô hộ. Trước hết, họ đã tước đoạt tự do chính trị “hoàn toàn không cho nhân dân ta một chút quyền tự do dân chủ nào..., 'họ tàn bạo giết hại những người tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng', “họ áp đặt những luật pháp tàn bạo', 'họ thiết lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc, để cản trở việc thống nhất quốc gia của chúng ta, để cản trở dân tộc ta đoàn kết'... Chỉ trong một đoạn ngắn hai mươi mốt câu, tác giả phơi bày bí mật của chiêu bài 'khai hóa, bảo hộ' dối trá bịp bợm mà chúng đã sử dụng để che đậy những hành động tàn ác xấu xa. Từ những hành động tàn nhẫn của thực dân Pháp như tàn sát Việt Minh, giết hại những người tù chính trị... tác giả dẫn dắt chúng ta đến những hành động nhân đạo. Chúng ta chống lại phát xít, chúng ta ủng hộ mặt trận dân chủ chống lại phát xít, chúng ta có vai trò và vị thế xứng đáng trước thế giới do sức mạnh tự chủ của dân tộc.
Tự do mà chúng ta mới giành được đó thực sự quý giá, để có được nó, nhân dân ta đã phải đánh đổi bằng bao nhiêu hy sinh, bao nhiêu xương máu và tâm huyết. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều thế lực thù từ bên ngoài đang âm mưu hủy hoại sự sống mới của nước Việt Nam non trẻ, nhận thức được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng lên đại diện cho nhân dân nêu lên lời tuyên bố trang trọng và quyết liệt.
Đây là lần đầu tiên mà một bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với thế giới về sự ra đời của một quốc gia mới, đánh dấu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do cho một dân tộc bất khuất kiên cường. Nó cũng là một bản văn chính trị mẫu mực, mạnh mẽ và lôi cuốn với lý lẽ và lập luận chặt chẽ, với từ ngữ và hình ảnh dễ cảm, chính xác và mạnh mẽ, với câu văn gọn nhẹ mà sâu sắc, giản dị mà hùng hồn, đã vừa cảnh báo, vạch mặt kẻ thù, vừa khích lệ, động viên tinh thần nhân dân, và thu hút sự đồng tình của cộng đồng quốc tế.