Bài làm 1
Và tiếp tục như thế, những sợi nhớ, những sợi thương mãi mắn cứ bện vào nhau, xoắn xuýt như tiếng gọi “Ta – mình” của hai trái tim đang yêu nhau. Đúng như những dòng thơ của Chế Lan Viên: ”Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi, đất bỗng chứa đựng tâm hồn”. Đúng vậy! Việt Bắc đã chứa đựng tâm hồn, mang theo nhiều tình yêu thương trong thơ Tố Hữu, như những bản nhạc ngân nga, với hình ảnh của những người và những kỷ niệm đẹp tuyệt vời mà không bao giờ quên.
“Ta về, lòng nhớ thắm thiết
Ta về, nhớ hoa cùng mình.
Rừng xanh, hoa chuối đỏ rực
Đèo cao, ánh nắng găm lưng
Ngày xuân, rừng mơ màng trắng xóa
Nhớ người, đan nón chuốt từng sợi ràng
Ve kêu, rừng nín lặng vàng loá
Nhớ cô em gái, hái măng một mình
Rừng thu, trăng soi, hòa bình như chưa từng nơi
Nhớ ai, tiếng hát ân tình thấm đẫm”
Tố Hữu, nhà thơ trữ tình chính trị, trong tác phẩm của ông, diễn tả những cảm xúc cách mạng một cách nhẹ nhàng nhưng sâu lắng. 'Việt Bắc' là tác phẩm nổi bật nhất của ông, kể về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, nơi mang lại nhiều kỷ niệm gian khổ nhưng cũng đầy hào hứng và hạnh phúc. Trong tác phẩm này, đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa là điểm nhấn sâu sắc nhất:
“Ta về, lòng nhớ vẫn đậm sắc
Ta về, nhớ hoa, nhớ người”
Câu hỏi khai mạc, hỏi “mình có nhớ ta”,
Câu trả lời đầy dồn dập, tự “ta” tái tái ngân
Nơi rừng xanh, hoa chuối đỏ rực tươi
Đèo cao, nắng sáng rợp thắt lưng
Rừng thơm hoa đỏ nồng nàn, xanh bát ngát
Vẻ đẹp bừng sáng dưới nắng rực rỡ
Màu đỏ chuối sáng soi giữa màu xanh rừng
Vẻ đẹp tươi mới, ấm áp bao la
Mùa đông ấm áp như mùa hè
Màu đỏ chuối phô diễn vẻ đẹp thiên nhiên
Sự lung linh của hoa chuối kết hợp với con người trong vùng chiến khu, những người lên núi làm nương, sản xuất lúa khoai cung cấp cho kháng chiến. Trước vẻ đẹp bao la của thiên nhiên, con người trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Câu thơ về ánh mặt trời chiếu sáng trên lưỡi dao rừng tại đèo cao không chỉ mang ngôn ngữ thơ mà còn có yếu tố nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người và ánh sáng kết hợp tạo nên một cảnh tượng đầy tinh tế. Vị trí ở đèo cao chiếm lĩnh núi rừng, tự do giữa trời cao và rừng xanh. Con người trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Mùa xuân đem lại sức sống mới cho cỏ cây, hoa lá sau mùa đông dài. Mùa xuân ở Việt Bắc cũng thế. Hoa mơ trắng mơ màng lan tỏa sức sống, làm sáng bừng cả khu rừng với vẻ đẹp dịu dàng, trong trẻo.
Màu trắng của hoa mơ trải dài khắp rừng, làm bừng sáng cả khu rừng với sự dịu dàng, tinh khiết của nó. Sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn đầy trong mỗi bông hoa mơ.
'Những ngày xuân năm nay, hoa mơ nở trắng rừng'
'Trắng rừng biên giới khắp nơi mơ màng hoa mơ nở'
Bác trở về im lặng, tiếng chim hót vang vọng
'Bờ lau thánh thót, vui mừng ngẩn ngơ'
Mùa xuân trở nên rực rỡ hơn với hình ảnh con người 'chuốt từng sợi giang'. Công việc hằng ngày của họ được thể hiện qua từng động tác tỉ mỉ, khéo léo. Mùa hè đến với tiếng ve ồn ào, làm bức tranh Việt Bắc trở nên sống động hơn bao giờ hết.
'Tiếng ve rộn ràng, rừng phách đổ vàng'
'Hồi ức về cô em gái hái măng một mình'
Khi ve kêu, rừng phách bắt đầu đổ vàng. Cảnh này như một bức tranh sơn dầu lung linh ánh sáng và âm thanh rộn rã của mùa hè.
'Trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, cô gái cần mẫn đi hái búp măng cung cấp cho bộ đội kháng chiến. Hình ảnh này đầy trữ tình và thân thiết.'
Mùa thu đến, núi rừng chiến khu được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo, tràn ngập hòa bình.
'Rừng thu dưới ánh trăng, khuất sau bóng cây, nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.'
'Trăng sáng soi cửa sổ, đòi thơ. Quân đang bận, xin chờ đến ngày mai.'
Tiếng chuông báo đánh thức mùa thu, tin vui về chiến thắng liên khu.
Không có tiếng chuông báo thắng trận, chỉ còn lại tiếng hát của dân tộc, tiếng hát nhắc nhở về tình yêu thủy chung. Đó chính là âm nhạc của Việt Bắc, của lòng mười lăm năm gắn bó mặn nồng.
'Nỗi nhớ, liệu có bao giờ phai mờ?' Nỗi nhớ vượt thời gian, vượt không gian, vẫn còn sâu đậm trong lòng người chiến sĩ cách mạng, xa xôi Việt Bắc thân yêu - nơi nuôi dưỡng họ trong những ngày gian khó khăn.
'Khi về, ta nhớ về mình, nhớ về hoa và người, nhớ về rừng xanh và những đồng bào thân thương. Nhớ ngày xuân trắng rừng, nhớ người làm ra từng sợi giang.'
'Bác về, chuông báo mùa thu tỉnh giấc. Tin vui chiến thắng lan tỏa khắp nơi.'
Ve kêu, rừng phách đổ vàng. Nhớ cô em gái hái măng một mình. Rừng thu trăng rọi hoà bình. Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Mỗi câu thơ như một hình ảnh sâu sắc về quê hương. Từ 'nhớ' được lặp lại năm lần, nối tiếp nhau như những dải nhớ khép kín một câu chuyện. Cảnh thiên nhiên và con người gắn kết với nhau, tạo nên bức tranh đẹp mắt và cảm xúc.
'Khi về, ta nhớ về hoa và người.'
Tạo hình về một Việt Bắc tươi đẹp và phong phú qua các mùa, từ mùa đông lạnh lẽo đến mùa xuân rực rỡ của hoa mơ, từ mùa hè nóng bức đến mùa thu bình yên dưới ánh trăng. Con người và thiên nhiên hòa quyện, tạo nên bức tranh sinh động, tràn đầy tình cảm và nhớ thương.
Trong từng dòng thơ, hình ảnh thiên nhiên và con người được tái hiện với sự tinh tế và sâu lắng. Đó là tình yêu thương sâu nặng và nỗi nhớ da diết về quê hương.
'Yêu nhau, chia sẻ cùng nhau. Ăn cơm nửa, phủ chăn chung.'
Ký ức về những khoảnh khắc đáng nhớ đã in sâu trong lòng, khiến chúng ta không thể quên. Tình thương ấy trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn của người ở lại và người ra đi. Cảm xúc được thể hiện qua những câu thơ lục bát sâu lắng, truyền tải niềm tin vào cuộc sống và tình yêu sâu đậm đối với quê hương.
'Trong những năm chiến đấu chống Pháp, Tố Hữu vẫn trung thành với văn thơ truyền thống, mang trong mình tinh thần dân tộc và dân gian. Bài thơ 'Việt Bắc' là biểu tượng của sự quay về nguồn gốc văn hóa dân tộc, một tuyên ngôn về cuộc kháng chiến kiên cường của Việt Nam. Sự kết hợp giữa tình cảm và kỷ niệm về quê hương, núi rừng và con người Việt Bắc được thể hiện qua từng câu thơ lục bát đầy cảm xúc.
'Khi trở về, ta nhớ về hoa và người. Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao nắng gắt thắt lưng.'
Mỗi câu thơ là một chạm vào trái tim, là một lời ru êm ái về quê hương, về tình yêu thương và những kỷ niệm đẹp.
Trong ngày xuân, rừng mơ mở những bông hoa trắng tinh khôi, nhớ về người đan nón chuốt từng sợi giang. Dưới tiếng ve kêu, rừng phách rơi lá vàng,
Nhớ về cô em gái hái măng một mình. Trong rừng thu, ánh trăng chiếu sáng, nhớ lại giọng hát ân tình thủy chung của ai.
Đọc bài thơ “Việt Bắc”, ta thấy tác giả sử dụng thể thơ lục bát và cặp từ “mình - ta” một cách phù hợp và sâu sắc. Điều này thể hiện tinh thần dân tộc và tình cảm chung của nhân dân Việt Bắc. Tố Hữu đã khéo léo kể lại câu chuyện về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên nơi đây, với sự nhớ nhung và tình cảm da diết.
'Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi. Đèo cao, nắng chói chang, dao gài thắt lưng.”
Bức tranh núi rừng được tô điểm bởi sắc đỏ tươi của hoa chuối, làm cho mảng xanh thêm phần sôi động. Trong mùa đông, ánh nắng chói chang của mặt trời kết hợp với con dao gài thắt lưng tạo nên hình ảnh mạnh mẽ và vẻ đẹp độc đáo của con người Việt Bắc.
“Trong ngày xuân, rừng mơ mở những bông hoa trắng tinh khôi, nhớ về người đan nón chuốt từng sợi giang”
Mùa xuân tươi sáng với biển hoa mơ nở rộ. Sức sống của mùa xuân lan tỏa khắp nơi trong rừng núi Việt Bắc. Trong khung cảnh trắng xoá của hoa mơ, hình ảnh “người đan nón” nổi bật. Nỗi nhớ được thể hiện chi tiết từng sợi giang, nhưng nhớ đối với Tố Hữu không chỉ là một mà là hàng trăm sợi. Nỗi nhớ kéo dài suốt bốn mùa trong năm, nhưng vẫn được giữ mãi trong tâm trí con người. Công việc tỉ mẩn hàng ngày tôn vinh vẻ đẹp tự nhiên của con người.
“Dưới tiếng ve kêu, lá rừng rơi vàng”
Nhớ về cô em gái hái măng một mình”
Trong bức tranh này, không gian nỗi nhớ mùa hạ được miêu tả rõ ràng và sâu sắc nhất. Hình ảnh “cô em gái hái măng” đọng lại ngọt ngào và thân thương. Tiếng ve kêu râm ran làm cho không gian trở nên rực rỡ hơn khi lá rừng rơi vàng. Màu vàng ấn tượng như một bức tranh tạo nên cảm xúc trong lòng mọi người, như một lời gọi của mùa hè, mùa màng đầy hứng khởi.
“Rừng thu, ánh trăng soi sáng, mang lại cảm giác hòa bình
Nhớ âm thanh của tiếng hát, đầy ấm áp và trung thành vào mùa thu
Không gian ban đêm hoàn thành bức tranh tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc. Ánh trăng len lỏi vào khu rừng, tạo ra không khí huyền bí, làm cho cảnh sắc trở nên thơ mộng hơn. Nỗi nhớ như ánh trăng tỏa sáng, biến thành “tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Không phải nhớ một người cụ thể, mà nhớ như một khát khao, như câu hỏi dành cho bản thân và mọi người.
“Nhớ ai vẫn mãi ngẩn ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ ai nhớ”
Tình cảm mơ hồ trong câu thơ đồng cảm giữa người ở và người đi. Trong nỗi nhớ ấy, “ân tình thuỷ chung” vẫn đọng mãi. Đoạn thơ miêu tả nỗi nhớ kết hợp với hình ảnh của núi rừng và bốn mùa với sắc màu đa dạng, tạo ra một bức tranh phong cảnh trữ tình. Thời gian diễn tiến theo trình tự nhưng không làm phai nhòa nỗi nhớ, ngược lại, mỗi khoảnh khắc trôi qua lại làm cho nỗi nhớ trở nên sâu sắc hơn. Mỗi mùa đều mang đến một không gian đặc trưng, và khi qua đi, lại để lại một kỷ niệm đẹp trong lòng - đó là lúc nhà thơ và không gian hòa quyện vào nhau. Đó chính là tình yêu chân thành, lòng trung thành của trái tim nhà thơ, cũng như của những người con của thủ đô kháng chiến.
Bài thơ 4
“Việt Bắc” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Tố Hữu. Tâm hồn của tập thơ này được thể hiện rõ nhất qua bài thơ cùng tên “Việt Bắc”. Bài thơ lan tỏa khắp nơi nỗi nhớ của lính Cụ Hồ với người dân Việt Bắc, của người nơi biên cương với người ở miền trong đất nước. Đoạn thơ dường như là lời tâm tình của chàng trai dành cho cô gái, khẳng định những tình cảm, những kỷ niệm không bao giờ phai nhạt dù phải xa quê Việt Bắc:
“Ta về, ta nhớ ta
Ta về, nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao, nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân, hoa nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu, rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trắng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Đoạn bình giảng được trích từ mười câu thơ, chia thành năm cặp lục bát. Cặp đầu tiên là lời nói đầy tình cảm nhưng không thiếu sự ngẩng cao đầu đáp lại. Ở đây, người con trai nung nấu câu hỏi cùng cô gái:
“Ta về, ta có nhớ ta”
Nhưng trước khi cô gái kịp trả lời, chàng trai đã khẳng định tình cảm của mình:
“Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Ngụ ý của người ở đây là: có lẽ ta về mình có nhớ ta hay không nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Nội dung chính của đoạn bình luận tập trung vào tám câu thơ còn lại. Tám câu thơ là bốn cặp lục bát, mỗi cặp là một bức tranh thiên nhiên tương ứng với một mùa nào đó ở núi rừng Việt Bắc. Bốn bức tranh hợp lại thành một bộ tứ bình hoàn chỉnh.
Trong bộ tranh tứ bình này, Việt Bắc xuất hiện đầu tiên trong bức tranh mùa đông. Màu chủ đạo của bức tranh này là màu xanh:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”
Đọc câu thơ này ta thấy nghệ thuật quen thuộc trong thơ cổ điển được Tố Hữu sử dụng khá mềm mại: nghệ thuật chấm phá. Tố Hữu chỉ gợi lên qua hai tiếng “rừng xanh” mà không miêu tả rừng như thế nào. Trên nền xanh thăm u, trầm lắng ấy, Tố Hữu thêm vào đó những bông hoa chuối rừng. Màu đỏ của chúng làm sáng rực cả khung cảnh. Những bông hoa chuối rừng như những đốm lửa bùng cháy. Màu đỏ của hoa chuối trong bài thơ này còn biểu tượng cho màu đỏ của lý tưởng của Cách mạng.
Trên bức tranh này, người Việt Bắc đang ở đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao làm cho cảnh sống động hơn:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Hình ảnh người Việt Bắc trên đỉnh đèo cao thể hiện phẩm chất của họ. Đó là những con người tự tin, hào hùng, làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng. Cũng có thể, hình ảnh con người trên đỉnh đèo cao trong câu thơ này là những anh bộ đội Cụ Hồ đã hơn một lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu.
Trong bộ tranh tứ bình, gam màu Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt: từ màu xanh thâm u, trầm mặc của rừng già trong những ngày mùa đông đã chuyển sang màu trắng thanh khiết của hoa mơ khi mùa xuân đến:
“Trong ngày xuân, hoa mơ rộ nở trắng khắp rừng”
Bây giờ, trước mắt chúng ta là những cánh rừng Việt Bắc hiện lên với sắc trắng trong lành của hoa mơ. Điều này mang lại cảm giác trang trọng, thiêng liêng nhưng vẫn gần gũi, gần gũi. Trong bức tranh về Việt Bắc vào mùa xuân, chúng ta không chỉ thấy màu trắng của rừng mơ mà còn thấy màu trắng qua những chiếc nón, màu trắng của những sợi giang. Hình ảnh người Việt Bắc lại hiện lên qua nỗi nhớ của người dân. Họ là những người lao động:
“Nhớ người đan nón, từng sợi giang kỹ công”
Hai từ “từng sợi” đã thể hiện rõ phẩm chất của con người Việt Bắc: cẩn thận, tài hoa, và kiên nhẫn.
Có lẽ bức tranh đẹp nhất trong bộ tranh tứ bình này chính là Việt Bắc vào mùa hè, vì ở đây không chỉ có sắc màu của núi rừng Việt Bắc mà còn có âm thanh của mùa hạ. Đó là tiếng ve reo vang lên:
“Ve kêu, rừng phách trải màu vàng”
Câu thơ có chỉ sáu âm tiết nhưng ẩn chứa một chuỗi sự kiện liên hoàn: tiếng ve vang lên, mùa hè đến, và rừng phách nhuộm màu vàng. Tiếng ve đã như làm cho rừng phách trở nên vàng rực. Dù những ngày cuối xuân, rừng phách vẫn còn non tơ, nhưng chỉ vài tiếng ve ở đầu mùa hè đã khiến cho rừng phách biến thành vàng. Tố Hữu sử dụng từ “đổ” một cách chính xác để miêu tả tốc độ nhanh chóng của sự biến đổi. Chữ “đổ” thể hiện rõ cảnh vật, người và tình cảm. Trong bức tranh đó, người Việt Bắc hiện lên qua công việc hằng ngày:
“Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Hình ảnh cô em gái trong câu thơ này hiện lên trong nỗi nhớ của người, được bao phủ bởi cái nhìn đầy tình cảm của nhân vật trữ tình. Hai chữ “một mình” đã mô tả hình ảnh những người lao động Việt Bắc, kiên trì, nhẫn nại. Kết thúc bức tranh, vầng trăng hòa bình đã ló dạng:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình”
Nếu ba bức tranh trước vẽ cảnh Việt Bắc ban ngày, thì đây lại là Việt Bắc trong đêm tối. Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên phong phú và đa dạng hơn. Ta thấy cảnh sắc dưới ánh mặt trời với màu vàng của nắng, màu vàng của rừng phách, màu vàng của măng, màu trắng của hoa mơ và nón, và màu đỏ của hoa chuối rừng. Cảnh thiên nhiên Việt Bắc còn hiện về dưới ánh trăng lung linh, huyền ảo. Bức tranh này cũng đi kèm với tiếng hát:
“Nhớ tiếng hát ấm áp của tình thân thủy chung”
Nghe tiếng hát của những người con Việt Bắc, ta lại thấy họ toát lên phẩm chất đặc biệt. Họ là những người luôn trung thành với Đảng, với Cách Mạng, suốt cả cuộc đời.
Đọc lại đoạn bình giảng, ta nhận thấy Tố Hữu sử dụng nhất quán các từ xưng hô “ta” và “mình”. Tuy nhiên, ở câu thơ cuối cùng, chúng ta gặp các từ “ai” và “nhớ ai”. Tưởng như “ai” ở đây là chính ta trong lòng mình.
Trong nỗi nhớ, chúng ta thấy thiên nhiên với bốn mùa và con người Việt Bắc với bốn dạng khác nhau. Tình yêu Cách Mạng đã kết hợp hoàn hảo với tình yêu lứa đôi. Điều này thể hiện một nét đẹp, một thành công trong đoạn thơ này của Tố Hữu.