Mặc dù có những khác biệt giữa thơ của Nguyễn Khuyến và các nhà thơ mới, nhưng thơ của ông vẫn chứa đựng sự chân thực và cảm xúc sâu sắc. Những bài thơ thu của các nhà Thơ Mới chỉ mượn cảnh vật, màu sắc và âm thanh của mùa thu để thể hiện tâm trạng lưu luyến và hoài niệm.
Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là một hiện tượng đặc biệt và đóng góp xuất sắc của ông trong thơ ca.
Cả ba bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mỗi bài thơ đều là một bức tranh tổng quan với nét vẽ sáng tạo, không phô trương nhưng cũng không hạn chế. Nguyễn Khuyến đã đưa chúng ta đến với vùng quê đầy nước ở Hà Nam vào mùa thu.
Mô tả về một khung cảnh thu cụ thể: một ao thu, vào một buổi chiều thu, một ông già đang câu cá trên chiếc thuyền và chờ đợi cá.
Thu quan sát và ghi lại các cảnh thu ở nhiều thời điểm khác nhau để thu thập những hình ảnh tuyệt vời nhất.
Cảnh thu trong bài thơ Thu vịnh đã được nhà thơ miêu tả như thế nào?
Phần lớn của bài thơ (6/8 câu) là mô tả về cảnh vật. Không gian và thời gian không bị giới hạn: buổi sáng, buổi chiều, đêm trăng thu. Bài thơ đề cập đến trời (c1-2), nước (c3), trăng (c4), hoa (c5) với những âm thanh vang vọng từ không gian cao nhưng vẫn mang đậm tính thơ, tính tinh thần đã vượt xa những khuôn mẫu truyền thống của thơ và hội hoạ cổ điển.
Mùa thu tạo ra một bầu trời không bị che phủ, không bị bủa vây, mà thay vào đó là một bầu trời cao ngất ngưởng, mênh mông, và một màu xanh đầy diệu kỳ. Trong vẻ đẹp mênh mông đó, một khóm tre xa xa từ thôn quê lặng lẽ theo làn gió thu nhẹ nhàng, làm cho không khí thu thêm phần lãng mạn: Cây tre run rẩy dưới làn gió nhẹ nhàng làm sống lại bầu trời yên bình ban đầu.
So với bầu trời thu, sông thu sáng sủa vào buổi sáng, vào buổi chiều tà khi bóng mát đã che khuất non xanh, vào thời điểm mặt nước mượt mà lấp lánh mà các nhà thơ cổ điển thường gọi là “khói sóng trên sông”. Bầu trời và mặt nước thu. Cảnh tượng tự nhiên đẹp nhất của thu (bầu trời và mặt nước hòa quyện thành một) chính là như vậy.
Sau mùa thu trời, mùa thu nước là mùa thu của trăng. Ánh trăng mềm mại, trong trẻo và tuyệt vời. Trong lòng dân gian, trăng luôn là bạn đồng hành của nhà thơ. Trăng là người bạn đi cùng trong cuộc hành trình, là người bạn đồng hành của chúng ta (Nguyễn Trãi); Một trăng, một bóng một người trở thành ba (Nguyễn Huy Tự). Trăng là nhân chứng thứ nhất: Vầng trăng sáng sủa giữa bầu trời, hai miệng nói cùng một lúc (Nguyễn Du). Có khi trăng là người nhắc nhở Gương Nga đang nhìn vào gương (Nguyễn Du). Nguyễn Khuyến không chỉ đón nhận ánh trăng và thưởng thức nó mà không biết rằng ánh trăng ở đây có yêu cầu thơ ca Tam nguyên Yên Đổ như nó đã trải qua cửa sổ yêu thơ của Hồ Chí Minh: “Trăng vào cửa sổ yêu thơ” - Nhật ký trong tù. Đúng là chỉ có trăng thu mới thân quen với con người đến vậy!
Giờ đây, đến lượt hoa thu. “Những cụm hoa trước giậu từ năm ngoái”, ý của nhà thơ là: Những bông hoa trước giậu đã nở từ năm ngoái liệu chúng đã trổ bông chưa? Và hoa thu chỉ là hoa cúc, một trong bốn loài hoa quý (lan, sen, cúc, mai) chọn mùa thu để nở hoa.
Điểm nhấn của cảnh thu là tiếng chim ngỗng từ xa trên bầu trời. Âm thanh không rối ren nhưng tiếng chim oanh hót trong tiết xuân (Truyện Kiều) chỉ thoáng qua như việc nâng cao tầm nhìn rộng lớn của không gian, chắc chắn là đàn ngỗng bay về phương nam để tránh cái lạnh, có thể thấy trong mùa thu muộn.
“Nhân hứng” là tác giả đã hoàn thành bức tranh thu. Say mê với cảnh trí thơ mộng nhưng rồi đột nhiên tỉnh giấc. Nhớ lại ông Đào – ông Đào Bành Trạch từng treo bức ảnh từ quan từ khi còn trẻ, trở về với vẻ đẹp của cỏ hoa và non xanh nước biếc. Nguyễn Khuyến cũng đã giữ miếng đỉnh chung về ẩn cư tại quê nhà. Có lẽ danh nhân Nguyễn Khuyến “đắng lòng với ông Đào” vì ông ta cho rằng mình trở thành quan hơi muộn?
Với Thu vịnh, chúng ta cảm nhận mùa thu thông qua “nhân hứng” chung mà nhà thơ để lại; với Thu điếu, chúng ta có một niềm vui nhỏ nhưng rất thú vị.
Ở quê hương của nhà thơ, ao và vũng rất phổ biến. Có lẽ không chỉ Nguyễn Khuyến mà cả người dân ở vùng đất này, đặc biệt là những ông già, khi rảnh rỗi thường lên thuyền nan để câu cá, xem đó như một niềm vui giải trí chăng? Đối với cụ Tam nguyên, việc câu cá vào mùa thu quả là một niềm vui thú vị.
Ông đẩy thuyền ra xa bờ để được ngắm nhìn cảnh thiên nhiên bao la của trời và nước. Chỉ có việc câu cá được nhắc đến, bài thơ chủ yếu ghi lại những quan sát và cảm nhận của nhà thơ về cảnh vật xung quanh. Ở đây, mọi chi tiết được chọn lọc sao cho mỗi cảnh sắc chỉ cần một nét, tạo ra một bức tranh thu đích thực và độc đáo. Ông kết hợp một cách tuyệt vời giữa hình ảnh và từ ngữ. Mặc dù bức tranh có vẻ yên bình, nhưng từng chi tiết lại rất sống động và gợi cảm.
Ao thu lạnh buốt, nước trong veo vẻo: Nước trong mát lạnh và trong suốt tạo cảm giác nhẹ nhàng rùng mình. Chiếc thuyền câu, từ lâu đã nhỏ bé, khi bước vào không gian rộng lớn càng trở nên nhỏ nhắn hơn, như “bé tẻo teo”. Ngư ông dường như cảm thấy bản thân quá bé nhỏ trước sức mạnh của thiên nhiên!
Thuyền ra xa bờ, gần nhìn, mang lại cảm giác thu mới lạ: Phẳng lặng, màu xanh là đặc trưng của mặt nước ao thu, hồ thu. Chính từ đó, Tản Đà đã viết: “Trời xanh xanh, nước xanh xanh, khói lam xây thành”: Màu biếc rong rêu khi gió thu nhẹ nhàng lướt qua. “Hơi gợn tí” nhưng cũng đủ mạnh để chiếc lá già của cây cao gần bờ lìa cành “đưa vèo” xoay xoay giữa không gian theo chiều gió… Đó là gió thu.
Trong hai câu 3-4, Xuân Diệu đã viết: “Thật tài tình! Nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, dễ tương xứng với cái mức độ sóng: “tí”. Tác giả Đây mùa thu tới thực sự đã phát hiện ra tài năng của Nguyễn Khuyến đầy đủ.
Sau khi buông câu, có lẽ nhà thơ mới có thời gian nhìn lên trời và quan sát làng quanh. Trời xanh sâu thẳm, vài đám mây bạc lẻn lẽn trôi như tôn thêm sự cao vút của không gian (Tầng mây lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt). Đường trong làng uốn quanh rặng trúc mát mẻ không ồn ào như những ngày bình thường, chỉ yên bình và êm đềm. Nhà thơ “tựa gối ôm cần” chìm đắm vào cảnh vật như trong mơ…
Đoạn kết “Cá đâu đớp dưới chân bèo” đánh dấu tiếng cá đớp mồi đã đưa nhà thơ trở về thực tại. Nguyễn Khuyến là ngư dân trên chiếc thuyền nhỏ mỏng.
Trong bài thơ Thu ẩm, nhà thơ Hà Nam dẫn dắt chúng ta qua nhiều thời điểm khác nhau để trải nghiệm vẻ đẹp của mùa thu.
Ngay từ đầu bài thơ, tác giả mô tả một ngôi nhà ở sâu trong làng Và (Vị Hạ), nơi cụ Thượng quan hưu trí thường uống rượu để quên đi muộn phiền; bởi vì có câu: “Chỉ có rượu mới phá được thành sầu”.
Từ “năm gian nhà cỏ” này, nhà thơ đã đưa vào cảnh thu và quan sát những nét đặc trưng của mùa thu khi buổi chiều về, ban đêm hay buổi trăng rằm. Thu ẩm thường diễn ra trong ngôi nhà này vào những thời điểm kể trên. Không có bóng dáng của bình minh hay hoàng hôn trong thơ thu. Có lẽ những thời điểm đó không phản ánh được bản sắc của nhà thơ? Hai buổi đêm và một buổi chiều lần lượt xuất hiện trong Thu ẩm.
Một đêm không trăng, bóng tối dày đặc trùm lấp đường ngõ, ánh đom đóm lập loè rải rác chiếu sáng đường phố. Đó là một cảnh đêm sâu đậm sắc mà Nguyễn Khuyến đã mô tả cực kỳ sinh động.
Một buổi chiều, khói lam từ nhà ai tỏa ra, làn khói thơm bốc lên từ những nhà cỏ hay từ bếp lò làm ấm không gian chiều. Đó là một cảnh tượng thân thuộc mà Nguyễn Khuyến đã biến thành văn hóa vàng trong thơ.
Phần kết của bài thơ đưa ra một vài tâm sự nhẹ nhàng: “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe… Độ năm ba chén đã say nhè”. Điều này thể hiện sự đau lòng của tác giả khi anh ta chìm đắm trong ký ức và cảm xúc.
Trong ba bài thơ thu này, Nguyễn Khuyến không nói trực tiếp, nhưng vẫn lộ rõ sự nỗi lòng và tình cảm sâu lắng về quê hương và tâm hồn. Đó chính là điều làm nên vẻ đặc biệt của tác phẩm của ông.
Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm xứng đáng nhận giải thưởng cao nhất trong hành trình thơ văn của Việt Nam.