Trong văn học Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, chưa có một hình tượng nhân vật dân tộc nào sống động và cảm động hơn người nghĩa sĩ trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông. Nói đúng ra, trước Nguyễn Đình Chiểu, con người bình thường cũng xuất hiện trong văn học Việt Nam. Tuy nhiên, đó hoặc là những ngư dân, nông dân gợn sóng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, hoặc là đám đông nhụt chí, hằng ngày bị đàn áp là cục đất củ khoai, khi cỏ dịp trở nên những “kiêu binh” lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Người dân nông thôn hiện diện trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác biệt. Họ thực sự là những người bình thường, là dân làng, dân nghèo, chỉ có một chiếc áo vải che mưa, che nắng. Bản tính của họ hiền lành, đơn giản, cuộc sống hàng ngày cật lực làm việc, vất vả kiếm sống. Bên trong những mái nhà tranh làng, họ chỉ biết canh tác ruộng, chăn trâu, sống với nghề nông. Một số công việc như cày cấy, gieo trồng, bừa bãi đều quen thuộc với họ. Như nhà thơ Thanh Thảo đã viết sau này, “họ đích thực là những con người nơi đồng quê đó đã bước vào thơ của Đồ Chiểu. Mặc dù không có áo dài cung đình, họ vẫn để lại dấu chân bùn làm đẹp thơ văn”. Đó chính là tấm lòng yêu nước, tôn nghiêm của người dân nông thôn.
Khi nghe tin quân giặc đến, dù chỉ là dân thường nhưng những người nông dân vẫn đầy lòng quan ngại. Trong xã hội trước kia, những vấn đề quốc gia lớn lao đầu tiên là trách nhiệm của quan lại. Dân nghe lệnh của quan và làm theo quy tắc. Dân nhìn thấy quan và tuân theo. Vì vậy, họ mong đợi tin từ quan như mong chờ mưa từ trời. Dù đôi mắt vẫn chờ đợi nhưng trong lòng họ đã rõ ràng:
Buổi nhìn thấy lớp mây trắng bồng bềnh, muốn đến nhai gan; ngày nhìn thấy khói đen bốc lên, muốn ra cắn cổ.
Lòng yêu nước không chỉ riêng của ai. Đặc biệt với những người nông dân chân chất, khi thấy bản tính trong sạch bị làm bẩn đã lâu, họ ghét thói quen không tốt như những người nông dân ghét cỏ. Do đó, dù là dân làng, dân quê, chỉ có một cái cày, họ sẵn sàng hy sinh vì tình yêu nước:
Thắp ngọn lửa bằng rơm cỏ, cũng đốt hết nhà dạy đạo kia; sử dụng thanh gươm nhọn như lưỡi dao, cũng đâm rơi đầu quan địch.
Người điều khiển trống râm rap, trống vang vọng, đạp rào chạy tới, xem giặc như không; không sợ kẻ Tây bắn đạn, đạn lớn, đập cửa xông vào, mạo hiểm như không có gì.
Kẻ đâm từ phía bên, người đánh từ phía sau, gây ra sự hỗn loạn, hỗn loạn cho linh hồn; bọn hè đầu, lũ hạ sau, không quan tâm tới tàu sắt, tàu đồng phát ra tiếng súng.
Trong cuộc đấu tranh giữa những nông dân yêu nước và kẻ thù, sự không cân sức đã rõ ràng. Họ đã bắt đầu từ tư duy tự giác, không có ai ra lệnh (ai bảo, ai buộc), không có quân sĩ, không có chiến thuật. Trong khi đó, quân giặc lại chuẩn bị kỹ lưỡng, có tổ chức, có quy mô. Họ bị thất thế khi đối mặt với vũ khí như tàu sắt, tàu đồng, đạn nhỏ, đạn lớn trong khi chỉ có một cái cày, một cái vòng. Nhưng lòng yêu nước và tinh thần quyết tâm đã khiến họ bất chấp nguy hiểm, như chẳng có gì. Mọi người đều biết giá phải trả cuối cùng cho hành động đó. Nhưng những người nông dân yêu nước biết rõ điều đó:
Giấc mơ về danh dự, không chỉ là da ngựa phủ lên da thây; sau trăm năm nằm dưới đất, cũng không đợi gươm gác về mộ.
Những nông dân anh hùng đã trở thành 'những anh hùng bất bại' (Phạm Văn Đồng). Hình ảnh của người nghĩa sĩ nông dân lần đầu tiên hiện diện trong văn học Việt Nam đã được tô điểm đầy tính bi kịch. Đó như một bức tượng vĩ đại đặt trong không gian và thời gian để nói với thế hệ sau rằng: 'Rót mồ hồn nước non, danh vọng lan tỏa khắp nơi; hiệp sĩ trở thành thần tiên để tôn thờ, tiếng khen ngợi mãi mãi không ngớt'.
Sự kết nối, lòng yêu thương và sự ngưỡng mộ đã khiến Nguyễn Đình Chiếu ghi lại hình ảnh rất bi kịch của người nghĩa sĩ nông dân. Hình ảnh đó đeo mang trọng lượng của một thời kỳ 'nước mắt anh hùng lau không kịp' và tình yêu bi thương của nhà thơ mù đất Đồng Nai - Gia Định. Những anh hùng 'sống đánh giặc - thác cũng đánh giặc'. Còn nhà thơ của họ đã tái hiện lại hình ảnh đó 'nghìn năm' trong trái tim của người dân thông qua văn chương.