Khóc Dương Khuê là một trong những bài thơ cảm động và hay nhất về tình bạn chân thành giữa hai nhà nho, hai nhà thơ từ trăm năm trước. Khi Nguyễn Khuyến khóc cho bạn, cũng như ông khóc cho chính mình.
Tình bạn được xếp hạng thứ năm trong thang giá trị Ngũ luân”. Tình bạn quân tử tập hợp chứ không hề hòa. Không đòi hỏi kết chặt như tình vợ chồng, bạn đời mà chấp nhận sự đứt nối, vơi đầy qua năm tháng. Tính bất nhất ấy thường dễ gây tan vỡ nhưng cũng có khi làm tình hạn đậm đà thêm ra: Quy luật tâm lí ấy cũng tương đương quy luật vật lí: Chỗ nối lại thường bền chắc hơn chỗ chưa đứt, số đo giữa vơi với đầy luôn lớn hơn giữa đầy với... chưa vơi! Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến ra đời trong trường hợp như thế, và do đó đạt độ đậm đà tha thiết hiếm có. Mối kết giao giữa hai người từng bị sờn đi, vơi đi một thời gian dài, nếu Nguyễn Khuyến không giữ đạo “thẳng thắn và tha thứ” của người quân tử, hẳn tình bạn giữa hai người khó lòng hàn gắn và Khóc Dương Khuê khó phô hết chân tình.
Họ là bạn đồng niên (cùng đỗ khoa thi Hương 1864). Với người quân tử, bạn đồng niên là “chuẩn” nhất, bởi phương châm của họ là “không kết bạn kẽ không bằng mình, thậm chí còn cầu toàn một chiều đến vô nghiệm, kết bạn phải, hơn mình, như mình thì không bằng không kết. Nói tắt một lời thì trong kết bạn, quân tử nặng lí trí hơn tình cảm, nhưng chính nhờ vậy mà vẫn “hòa hợp dù không đồng lòng. Tình trạng ấy thực đã xảy ra giữa giao tình Nguyễn Khuyến và Dương Khuê.
Khi thành phố thất thủ (1883), Nguyễn Khuyến quyết định rút lui để tuân thủ triết lý 'lúc đạt thành công thì hãy hướng lợi cho cộng đồng, lúc gặp khó khăn thì hãy tìm cách tự bảo vệ bản thân. Trái lại, Dương Khuê tuân thủ triết lý quân tử theo một cách khác: 'quân tử làm quan là làm điều đúng đắn' và 'khi mà điều đúng đắn cần thiết nhất, thì mới là lúc quân tử cần phải đứng lên!'. Do đó, Dương không rút lui như Nguyễn mà tiếp tục phục vụ sáu triều đời với nhiều biến cố phức tạp, không có bất kỳ cuộc biến động nào có thể sánh kịp. Khi Nguyễn buộc phải 'đánh cắp lòng tự trọng' để 'bảo vệ tính mạng' trong vai trò giáo sư vô danh tại dinh Kinh Lược Bắc Kỳ, thì Dương vẫn tiếp tục phục vụ như một quan tham tá tại Dinh Kinh Lược đó (ông Tham tá ấy có vị thế cao quý nên sau này mới được thăng chức thành Tổng đốc Nam Định - Nam Bình, rồi sau đó về hưu với tước hiệu Binh Bộ Thượng Thư).
Mọi người đều biết rằng Nguyễn Khuyến thường có những lời phê phán đầy căm phẫn đối với các đồng minh (Lê Hoàn, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Hữu Độ và những người khác...) ngay cả sau khi họ qua đời. Tuy nhiên, như thánh nhân đã dạy; 'Khi nước quá sâu, không có cá - khi nhìn quá sâu, không có bạn'. Vì vậy, Nguyễn Khuyến đã dành những khoảnh khắc của tình bạn quân tử cho Dương Khuê, trong đó một trong những khoảnh khắc đó đã được biểu lộ rõ nhất qua 38 câu thơ trong bài 'Khóc Dương Khuê'.
Nỗi đau mất mát của ông hiện ra rất rõ ràng.
Bác Dương, đã đến lúc nên dừng lại,
Mây che phủ, lòng ta đầy xót xa (câu 1-2)
Những lời thơ nghe như một lễ trình thật lòng, đích thực là lời chỉ trích không khoan nhượng, nhắm đúng vào 'yếu điểm' của kẻ sĩ; hành vi của người quân tử. Lời trách cứ nhẹ nhàng như không, nhưng tất cả đều nhắm vào hai từ đó! Nếu không hiểu rõ hành vi của mỗi người, ta dễ dàng 'bị mắc kẹt' trong lối nói lấp lửng ấy; dù gặp phải vận mạt của đạo Thánh nhưng Nguyễn hiểu rõ còn Dương thì... chưa chịu biết! Nguyễn đã có trách nhiệm chỉ ra điều đó vì 'trách cho tốt là đạo bạn bè. Tâm lý của người đời thường nghĩ 'nghĩa là nghĩa' nhưng với người quân tử, đó mới là lúc họ 'kế toán' với nhau thẳng thắn và nghiêm túc về mọi lời nói, về 'âm thanh' và 'âm thanh'; Bởi vì 'điều này mới là quyết định công bằng' (có lẽ vì vậy mà tập tục phương Đông coi trọng ngày mất hơn ngày sinh như phương Tây chăng?)
Lời thơ giải thích việc ngại đi lại là do tuổi già:
Muốn đi lại khi đã già thì thêm vất vả
Trước khi trải qua ba năm gặp nhau một lần (câu 19-20)
Trước khi trải qua ba năm, tức là khi Nguyễn 65 tuổi, Dương 61 tuổi. Liệu cả hai đã 'già', đã 'khó khăn khi đi lại' không? Đừng quên rằng với trí tuệ của một Tham tri như Nguyên, một Thượng thư như Dương, khái niệm 'để lại' chỉ giới hạn trong việc lên xuống thuyền hay ngồi trên thuyền, quay quần bên tiểu đồng, dạy trò, đào tạo giáo viên, v.v. Tôi nghĩ rằng hai từ mới ở câu 18 thực sự 'được trách nhiệm' về sự 'khó khăn khi đi lại' của họ, không phải là tuổi già ở câu 19, vì trong văn bản Hán, tuổi già hoàn toàn... không chắc chắn: 'Sự vận mạt không chắc chắn' (Qua lại không... thật không chắc chắn). Cách diễn đạt độc đáo! Nếu sử dụng trong bài kiểm tra, không chắc Tam Nguyên có đỗ nhưng trong 'Khóc Dương Khuê' thì đó mới thật phù hợp với Tam Nguyên!
Có lẽ họ 'nhác đi lại' vì còn một lí do khách quan nữa: Cả hai đều sợ gây rối cho dư luận cũng như thực dân, ngoại trừ việc gặp nhau ba năm trước đó có thể coi là một chuyện không thể tránh khỏi: Tang lễ của vợ Nguyễn Khuyến. Vì vậy, câu 'Trước khi trải qua ba năm gặp nhau một lần' cần được nhấn mạnh vào từ 'một', đó là tình huống 'ngoại lệ' của 'Qua lại không... thật không chắc chắn'.
Dù sao đi nữa, điều đó thật sự đau lòng. Người bạn duy nhất còn lại ở tuổi 131, thực sự chỉ còn một nửa tình bạn, bỗng dưng cũng qua đời! Nguyễn Khuyến cảm thấy rất cô đơn, bàng hoàng thật sự, ông giống như trở thành bóng đen thêm một lần nữa, cái chết vốn kín đáo, và 'bản năng kín đáo là nền tảng của sự đạo đức, sự đạo đức tạo nên tính cách của người quân tử. Vì vậy, những suy tư của ông (câu 19-28) thực sự là 'gần gũi với con người'. Mất đi Dương Khuê, liệu có ai trên thế gian này hiểu được Nguyễn Khuyến? Quản Trọng khóc Bảo Thúc, Khổng Minh khóc Chu Du cũng đều vì lý do đó: 'Quen biết đầy đủ với thiên hạ, thích làm quen chẳng phải tốt'. Việc Nguyễn Khuyến không còn cần đến rượu, thơ, hoặc bạn bè (câu 29-34) là điều hoàn toàn dễ hiểu. Tài năng của ông Tam Nguyên thật đáng kinh ngạc. Hãy thử phân tích một câu:
Trong bốn câu cuối cùng, thái độ đạo đức của Nguyễn Khuyến mới thật sự minh bạch, bình đẳng đến kỳ lạ (theo quan điểm của chúng ta).
Bác không ở... hai hàng trên đầy (câu 35-38).
Ông ấy đã qua đời rồi. Tôi nhớ chính xác (những kỷ niệm cũ) nhưng không hề buồn, không khóc. Dường như vậy nhưng sức mạnh của từ ngữ bản Nôm lại làm cho người đọc cảm thấy tha thứ hơn là nhận ra sự trung thực của tác giả. Tài năng của ông Tam Nguyên thực sự đáng kinh ngạc. Hãy thử phân tích một câu:
Tôi tuy yêu thương nhưng vẫn nhớ nhung
Chữ 'tuy' thường làm phủ nhận ý sau nó (ví dụ: tuy giàu nhưng bủn xỉn, tuy nghèo nhưng xài sang...). Do đó, việc ông 'nhác khóc', có điểm chung với 'nhắc đi lại' quả thực là quá đáng! Việc suy nghĩ của chúng ta để chỉ trích lòng quân tử cũng quá đáng hơn.
Vì vậy, việc Khóc Dương Khuê thật sự là một dấu mốc của tình bạn quân tử. Tình bạn ở họ luôn đề cao chuẩn mực, lí trí. Họ 'nhanh nhạy trong công việc nhưng cẩn trọng trong lời nói, cân nhắc giữa hai bản Hán và Nôm, chúng ta thấy Khóc Dương Khuê giảm bớt sự thẳng thắn quá mức ở nguyên tác. Ít ai nhận ra ý đồ ấy vì người ta thường nghĩ rằng khóc là việc của tình cảm đơn giản, quân tử thì cũng vậy, Nguyễn Khuyến áp dụng đúng đắn 'đạo thẳng thắn và tha thứ' của người quân tử vào cả hai bài thơ nhưng điều thú vị là ông dành thẳng thắn cho nguyên tác, dành tha thứ cho bản Nôm. Cuối cùng, quân tử vẫn thể hiện đúng bản chất quân tử mà không làm đau lòng những 'phi quân tử'. Nếu không độc đáo như vậy, tài năng của Tam Nguyên sẽ không được khẳng định!
Nên biết rằng trong nguyên tác, Nguyễn Khuyến tự xưng là 'dư' chứ không xưng là 'ngã'. Tự xưng 'dư' nghe lạnh lùng hơn, có thể sử dụng để xưng hô với cả người không quen biết (Như khi Chu Hi mở đầu bài tựa Kinh Thi: 'Hoặc hữu vấn ư dư viết'. Nếu có ai hỏi Ta rằng...). Trong nguyên tác, Nguyễn gọi Dương chỉ hai lần bằng chữ Quân thích đáng, có lẽ để nhắc nhở về ngày thân thiết, còn bảy lần sau (các câu 17, 23, 24, 25, 28, 35, 36), ông lại sử dụng xưng hô thứ ba chủ ngữ và chỉ sử dụng xưng hô trực tiếp khi cố gắng tránh sự quá nhiệt tình. Trong bản Nôm, Nguyễn Khuyến dịch thành 'bác' cho cả quân và công, điều này làm cho ông trở nên 'quân tử hơn một phen nữa', tính lạnh lùng của ông đã được giấu đi một cách khéo léo, không ai nhận ra được điều này càng tốt. Điều này làm cho Khóc Dương Khuê trở nên thực sự là khoảnh khắc của tình bạn quân tử.
Cách 'giận thì giận, thương thì thương' không nhất quán, không đồng nhất một chút nào, nhưng đó là cách cân bằng giữa lí trí và tình cảm. Đối với chúng ta, điều này có vẻ rất khó chịu nhưng lại là đạo lý của quân tử. Điều đặc biệt của Khóc Dương Khuê là nó có thể làm vừa lòng cả hai phía: phía thích nghĩ rằng Nguyễn đau lòng vì thương bạn, và phía nhận ra rằng ông không thực sự thương bạn mà chỉ không thể kìm nén được xúc động vì 'chút nghĩa'. Chính sự cân bằng này giữa hai chiều mới làm cho dấu ấn của Tam Nguyên trở nên sâu sắc hơn. Cách tiếp cận đặc biệt của Nguyễn Khuyến (đặc biệt là trong việc xử lý câu đối) cũng là điều cần nhớ. Đừng quên rằng đây là một bài thơ tự sự cá nhân chứ không phải là một cách để chia buồn, để trau dồi theo kiểu thù tạc thường thấy. Có thể vào thời điểm đó, gia đình Dương có lẽ chưa có ai biết đến.
Cuối cùng, nếu có ai đó nghĩ rằng “nói là khóc nhưng cuối cùng là không khóc thì thà đừng khóc”. Suy nghĩ như vậy là xây dựng trên tư duy 'phi quân tử' để phủ nhận tính cách quân tử của Nguyễn Khuyến trong cuộc sống và làm mất đi một kiệt tác về Tình Bạn như vậy.
Mytour