Hôm nay, chúng tôi muốn giới thiệu tới quý thầy cô và các bạn học sinh tài liệu mẫu văn lớp 10: Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ của Ngô Sĩ Liên.
Mong rằng với tài liệu này, các bạn học sinh sẽ có thêm kiến thức vững chắc về môn Ngữ văn lớp 10 của mình. Dưới đây là dàn ý và 6 bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ, mời các bạn cùng tham khảo.
Dàn ý phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ
Bắt đầu:
- Sử là tác phẩm viết về các sự kiện và nhân vật lịch sử. Mục đích của sử là ghi chép sự thật, không hư cấu như văn học nghệ thuật, nhằm cung cấp những sự kiện lịch sử của dân tộc và bày tỏ thái độ khen chê của sử gia đối với các nhân vật lịch sử để đời sau lấy đấy làm gương. Đặc điểm nổi bật của sử là tính xác thực của sự kiện, chiều sâu của tư tưởng đã kết hợp chặt chẽ với trình độ nghệ thuật cao của sự trình bày, diễn đạt sử xưa có hai thể: biên niên và kí sự. Biên niên là lối viết sử theo trình tự thời gian (Đại Việt sử lược - khuyết danh. Đại Việt sử ký - Lê Văn Hưu, Đại Việt sử ký toàn thư - Ngô Sĩ Liên). Kí sử là lối viết sử theo các sự kiện hoặc theo từng sự việc của nhân vật lịch sử (Đại Việt thông sử - Lê Quý Đôn, Sử ký - Tư Mã Thiên).
- Bài Thái sư Trần Thủ Độ được trích từ sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển V, phần Ban kí, của nhóm tác giả Ngô Sĩ Liên chủ biên là một bài văn lịch sử xuất sắc. Bài viết vừa giúp người đọc hiểu rõ thêm phẩm chất chí công vô tư, biết khích lệ cấp dưới giữ vững kỷ cương phép nước của Trần Thủ Độ - vị danh quan nhà Trần, vừa cho thấy một lối viết sử trung thành, hấp dẫn của tác giả.
Phần chính:
* Nội dung chi tiết:
- Trình bày về cuộc đời của Trần Thủ Độ, tác giả chọn ra bốn sự kiện phản ánh bốn khía cạnh về nhân cách của vị quan nổi tiếng. Lối viết sử của tác giả thu hút bởi gây sự bất ngờ, làm người đọc hồi hộp chờ đợi. Tất cả bốn sự kiện, kết quả luôn đảo lộn với dự đoán của người đọc.
- Đối với kẻ phạm tội mình: Thông thường, mọi người ghét kẻ phơi bày tội lỗi hoặc điểm yếu của mình. Nhưng Trần Thủ Độ không như vậy. Đầu tiên, ông nhận xét “Đúng như lời anh ta nói” và điều bất ngờ hơn: Lấy tiền lụa thưởng cho hắn. Điều này không chỉ là sự thẳng thắn, nghiêm khắc với bản thân mà còn khích lệ người trung thực, dũng cảm dám phơi bày sai lầm hoặc tội lỗi của kẻ cấp trên là chính mình.
- Sự kiện người giữ thềm cấm cũng như vậy. Người đọc hồi hộp chờ đợi khi Thủ Độ tức giận, sai đi bắt hắn. Kết quả là Thủ Độ nói: “Người ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa”. Không chỉ thế, ông còn ban thưởng vàng lụa cho hắn.
- Sự kiện người xin làm chức câu đương càng thú vị. Thực ra chức vụ câu đương chỉ là một chức xã quan trong làng, nếu như Quốc mẫu (vợ của Trần Thủ Độ) có xin giúp cho người thân thì cũng không có gì quá đáng. Hơn nữa, Trần Thủ Độ lại gật đầu và viết ra họ tên quê quán của người đó. Hành động này khiến người đọc nghĩ ông đồng ý. Khi xét duyệt, ông lại gọi người đó đến. Tiếng cười vang lên khi người ấy mừng rỡ chạy đến, tin chắc rằng mình nhất định sẽ được giữ chức câu đương. Nhưng kết quả lại đối lập, thông qua một câu nói của Trần Thủ Độ mà không ai có thể đoán trước: “Người vì có Công chúa xin cho được làm chức, không đồng nghĩa với người câu đương khác được”. Đến đây, người đọc tin rằng, người thân của Công chúa không chỉ được giữ chức câu đương mà có lẽ còn được ưu ái hơn. Nhưng Trần Thủ Độ lại nói: “phải cắt bớt một ngón chân để phân biệt...”. Và kết quả là tên kia phải van xin mãi mới được tha cho. Hành động của Trần Thủ Độ khiến cho từ đó không ai dám tới nhà thăm riêng nữa.
- Thủ Độ cũng chống lại việc đưa anh em, họ hàng vào nắm giữ chức vụ quan trọng trong triều đình, xây dựng mối quan hệ bè bạn. So sánh của ông, giữa bản thân và người anh thực sự bất ngờ nhưng cũng rất sâu sắc, thể hiện sự chí công vô tư, tất cả vì lợi ích của đất nước, khiến vua cũng phải tâm phục nghe theo.
* Nghệ thuật Văn:
- Phong cách viết sử của tác giả rất hấp dẫn, tạo nên yếu tố bất ngờ khiến người đọc căng thẳng chờ đợi. Tất cả bốn sự kiện trên đều có kết quả luôn đối lập với dự đoán của người đọc. Mở đầu mỗi sự kiện chỉ bằng hai câu: một câu trích lại lời nói của Trần Thủ Độ, một câu kể về hành động của ông. Sự kiện người giữ thềm cấm cũng như vậy. Người đọc hồi hộp chờ đợi khi Trần Thủ Độ tức giận, ra lệnh bắt anh ta. Kết quả là Trần Thủ Độ nói: “Người ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa?”. Không chỉ thế, ông còn ban thưởng vàng lụa cho hắn.
- Phong cách viết sử như vậy rất tiết kiệm từ, không mô tả, phân tích tâm lí nhưng tính cách nhân vật vẫn được thể hiện sâu sắc và thái độ khen chê của tác giả cũng được biểu lộ rõ ràng. Hơn nữa, người viết hoàn toàn tán dương, ngưỡng mộ Trần Thủ Độ nhưng không có một lời ca tụng nào. Phong cách viết sử như vậy được gọi là theo bút pháp Xuân Thu.
Phần Kết:
- Qua bốn sự kiện và bốn cách ứng xử trong cuộc đời của Trần Thủ Độ, tác giả của Đại Việt sử ký toàn thư đã mô tả sinh động chân dung một nhân cách chí công vô tư, cao thượng, rộng lượng, không để tình cảm cá nhân lấn át, luôn tuân thủ kỷ luật của nhà nước và khích lệ cấp dưới làm theo gương mình, đồng thời cũng không thiếu sự thông minh, hóm hỉnh.
- Đại Việt sử ký toàn thư nói chung, đặc biệt đoạn trích về Thái sư Trần Thủ Độ đã đạt đến vẻ đẹp của lối văn sử. Nó làm cho người đọc cảm thấy tự hào hơn về con người Việt Nam, về dân tộc Việt Nam và càng trân trọng hơn những di sản văn hóa mà cha ông để lại.
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ - Mẫu 1
Khi nhắc đến triều đại nhà Trần, không thể không nhắc đến Thái sư Trần Thủ Độ. Để triều đại nhà Trần được thành lập và phát triển qua hai đời vua, Trần Thủ Độ có thể được coi là công thần khai quốc, là trụ cột không thể thiếu của triều đại. Con người của ông đã được nhiều thế hệ sử học nghiên cứu, tìm hiểu và viết thành nhiều tác phẩm sử khác nhau. Trong số đó, tiêu biểu là tác phẩm của Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư. Qua đoạn trích về Thái sư Trần Thủ Độ, Ngô Sĩ Liên đã phản ánh đầy đủ con người của Thái sư trên nhiều khía cạnh khác nhau, từ cuộc sống trong triều đình đến mối quan hệ gia đình.
Mở đầu bài sử, bằng ngôn từ trang trọng, tôn kính, tác giả thông báo về sự ra đi của Thái sư Trần Thủ Độ.
'Giáp Tý, năm thứ bảy.
Mùa xuân, tháng giêng.
Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương.'
Có thể nói, cái chết của Trần Thủ Độ là một mất mát không chỉ đối với gia đình mà còn là của toàn dân tộc thời đó.
Trong suốt bài viết, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã chọn ra bốn tình huống để chúng ta thấy rõ con người của Thái sư. Qua những tình huống đó, dù nhiều người không quen biết ông, cũng có thể hiểu rõ về Trần Thủ Độ là ai.
Tại tình huống đầu tiên, nếu Trần Thủ Độ không biết cách xử lý, mâu thuẫn giữa ông và vua Thái Tông có thể không thể giải quyết được, dẫn đến hậu quả lớn lao. Nhưng ông đã làm điều ngược lại, thể hiện sự thẳng thắn, công bằng, không kỳ thị và khích lệ người khác.
Tại tình huống thứ hai, Thái sư Thủ Độ không chỉ thể hiện sự công bằng mà còn là sự đồng lòng, tôn trọng kỷ luật, không để bị lợi dụng.
Tình huống tiếp theo liên quan đến việc xin chức cho một người họ hàng cho thấy sự quyết đoán, công bằng và không phục tùng lợi ích cá nhân của Trần Thủ Độ.
Tình huống cuối cùng được coi là cao trào và hay nhất khi vua Thái Tông đề nghị phong tướng cho anh trai của Trần Thủ Độ là An Quốc. Thái sư đã không ngần ngại nói: 'An Quốc là anh tài, nếu người đó hiền thì thần xin từ chức, nhưng nếu thần là hiền hơn An Quốc thì không nên bổ nhiệm An Quốc. Nếu hai anh em đều làm tướng thì triều đình sẽ phức tạp như thế nào?'.
Trong triều đại nhà Trần, Thái sư Trần Thủ Độ được coi là một bậc khai quốc công thần, là trụ cột không thể thiếu của triều đình. Nhiều thế hệ nhà sử học đã viết về ông, trong đó có Ngô Sĩ Liên với Đại việt sử ký toàn thư. Qua đoạn trích, hình ảnh của Thái sư Trần Thủ Độ được mô tả chân thực trên nhiều khía cạnh khác nhau, từ chính trị đến gia đình.
Tại tình huống đầu tiên, Thái sư Trần Thủ Độ đã thể hiện sự thẳng thắn, công bằng và khích lệ động viên người khác, không lợi dụng việc này để làm tổn hại đến đất nước.
Tại tình huống thứ hai, Thái sư Trần Thủ Độ không chỉ thể hiện sự công bằng mà còn là sự tôn trọng kỷ luật, không để bị lợi dụng.
Tình huống cuối cùng, Thái sư Trần Thủ Độ đã thể hiện sự suy tính kỹ lưỡng và tài thao lược trong việc đề xuất không bổ nhiệm anh trai làm tướng, tránh được những hậu quả phức tạp có thể xảy ra.
Tình huống thứ hai không liên quan đến quyền lợi của sơn hà xã tắc mà chỉ là chuyện riêng trong gia đình. Phu nhân của Thái sư Trần Thủ Độ vốn là hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông. Sau khi Lý Huệ Tông bị bức tử, bà bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa và ép gả cho Trần Thủ Độ. Một lần, bà ngồi trên kiệu để vào cung, người lính quân hiệu bắt bà phải xuống kiệu trước thềm cấm. Tình huống này chứa đựng mâu thuẫn giữa phu nhân của Trần Thủ Độ và người lính. Đỉnh điểm của mâu thuẫn là chi tiết phu nhân cho rằng mình bị coi thường nên khóc lóc, kể tội người lính và giận dữ nói với chồng rằng: Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu khinh nhờn như thế. Lúc đầu, Thủ Độ giận, sai đi bắt Người quân hiệu kia chắc mình phải chết. Khi đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt. Anh ta đem sự thực trả lời. Thủ Độ nói: Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa? Điều đó cho thấy ông không thiên vị người thân và rất tôn trọng phép nước, tôn trọng người giữ đúng phép nước, dù đó là kẻ dưới quyền.
Tình huống thứ ba là phu nhân xin ông cho một người trong họ của bà được làm câu đương, tức là một chức dịch nhỏ trong xã chuyên lo việc bắt giữ và áp giải phạm nhân. Chi tiết này tạo ra mâu thuẫn giữa tính cách liêm chính của Trần Thủ Độ với lời đề nghị của phu nhân. Tác giả gây chú ý bằng chi tiết: Thủ Độ gật đầu và biên lấy họ tên quê quán của người đó, khiến người đọc lầm tưởng là sự việc sẽ diễn ra đúng theo ý muốn của phu nhân, để rồi hoàn toàn bất ngờ trước cách xử lý của Thái sư cũng như thú vị trước cách giải quyết cao trào xung đột của tác giả. Trần Thủ Độ yêu cầu hắn muốn làm câu đương thì phải chặt một ngón chân để phân biệt với những câu đương khác, khiến hắn ta sợ hãi, kêu van xin thôi, hồi lâu mới tha cho.
Tình huống cuối cùng có thể được coi là tình huống cao trào và hay nhất khi vua Thái Tông đề nghị phong tướng cho anh trai của Trần Thủ Độ là An Quốc. Ông đã không chút suy nghĩ mà nói: “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, còn như cho thần là hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng thì việc trong triều sẽ ra sao?”. Với tài thao lược hơn người, với sự suy tính kỹ càng, ông đã lường trước được việc để cả hai anh em cùng giữ trọng trách lớn trong triều hẳn sẽ hết sức phức tạp và sẽ có không ít lời dị nghị.
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ - Mẫu 3
Ngô Sĩ Liên là một nhà viết sử tài năng và ông đã cho ra đời bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” được xem là một trong những tác phẩm có giá trị trên cả lĩnh vực văn học và lịch sử. “Thái sư Trần Thủ Độ” là một đoạn trích hay của tác phẩm tên tuổi này.
Thật dễ nhận thấy xuyên suốt bài viết, nhà sử học Ngô Sĩ Liên dường như đã chọn ra bốn tình huống làm cho người đọc chúng ta thấy rõ được con người thật của Thái sư. Và cũng thông qua những tình huống đó, và cho dù cho nhiều người không quen, không biết đến ông hay cũng chưa từng gặp mặt ông cũng có thể hiểu rõ Trần Thủ Độ là con người như thế nào.
Có thể thấy ở trong tình huống đầu tiên, nếu như nhân vật Trần Thủ Độ không biết cách xử lý, thì dường như có thể mâu thuẫn của ông với vua Thái Tông sẽ không thể nào gỡ bỏ được. Chính những điều này có thể dẫn đến những hậu quả hết sức khôn lường. Ông được xem là một Thái sư “quyền hơn cả vua” nên người hặc đã sợ ông sẽ cướp mất thiên hạ hoặc dường như cũng có thể lấy tay che trời để làm nhiều việc hại dân hại nước, vì lúc này vua còn quá trẻ, quá trẻ để có thể mà xử lý hết được công việc triều chính. Vua đã ngay lập tức dẫn theo người hạch tội đến nhà Trần Thủ Độ để hỏi rõ ngọn ngành. Trái ngược với những gì vua và người hặc đó nghĩ, rằng Thái sư sẽ chối tội, sẽ nổi giận, trị tội người hặc. Nhưng thật ngạc nhiên thay, ở Trần Thủ Độ đã làm ngược lại. Và khi mà nghe nhà vua nói xong, đầu tiên là ông nhận lỗi ngay “đúng như lời người ấy nói”. Rồi ông lúc này dường như cũng như đã lại tiếp tục làm cho họ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác bằng cách lấy tiền lấy lụa thưởng cho anh ta.
Cũng chính vì vậy là với tình huống đầu tiên, mâu thuẫn giữa Thái sư và nhà vua dường như cũng đã được giải quyết một cách nhẹ nhàng và trở lên thật dứt khoát. Ông được xem đúng là một con người khác thường, có lẽ chính vì sự khác thường này không phải là dị biệt, mà chính là sự ngay thẳng. Và chính sự thẳng thắn thừa nhận lỗi lầm, không những không ghen ghét, thù hằn kẻ đã vạch tội mình, mà ông còn có cách khích lệ động viên cho người vạch tội và cả những người khác sau này nữa. Có lẽ rằng cho dù người làm sai có quyền cao chức trọng, có quyền uy hơn cả vua thì cũng không nên vì thế mà xum xoe nịnh nọt. Nhưng dường như ở ông chỉ làm vậy với những người có ý tốt, những người dường như lại không lợi dụng việc này để làm tổn hại đến đất nước.
Khi mà tới tình huống thứ hai, lúc này thì ở Ngô Sĩ Liên chọn một khía cạnh khác, gần gũi với chúng ta hơn – đó là gia đình. Vợ của ông – Linh Từ Quốc Mẫu vốn được xem là hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông. Và khi nhà Lý mất bà bị giáng chức làm công chúa, rồi lấy Trần Thủ Độ. Có thể nói trong một lần ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm, và những người quân hiệu (đây là một chức quan võ nhỏ) dường như cũng đã lại đứng ra ngăn cản, không cho bà đi qua. Khi đi về tới nhà, bà khóc lóc kể tội viên quan đó cho chính Trần Thủ Độ, và đã nói rằng người ta khinh thường, không tôn trọng bà. Và khi mà thái sư nghe vợ nói xong thì giận lắm, thái sư đã sai người đi bắt viên quan đó. Có lẽ rằng chính người quân hiệu kia chắc mẩm lần này thì mình chết chắc rồi. Thế nhưng dường như ta lại không ngờ, mọi việc lại diễn ra hoàn toàn trái ngược lại hết.
Với một vẻ mặt lúc đi của người quân hiệu là sợ sệt, hoang mang thì lúc về lại rạng ngời, hớn hở. Và chính vì là những người ngày được thưởng vàng lụa và lại được khen rằng là “người ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa?”. Đó cũng chính là bởi sau khi căn vặn, tra hỏi, nghe viên quan võ đó nói rõ tất cả mọi chuyện. Ông không vì người đó là vợ mình mà thiên vị cho người nhà để xử phạt viên quan đó. Ông dường như vẫn rất công chính liêm minh, ông luôn luôn tôn trọng kỷ cương phép nước, và thêm nữa là ông luôn tôn trọng những người luôn làm đúng phép nước dù cho rằng người đó là quan cao chức lớn hay người đó là những người lính nhỏ bé đi chăng nữa.
Tiếp theo là tình huống khi phu nhân của Thái sư mạnh dạn xin cho một người họ hàng được bổ nhiệm làm câu đương, một chức vụ nhỏ trong xã, chịu trách nhiệm bắt giữ và đưa phạm nhân ra tòa. Thái sư Trần Thủ Độ không do dự mà ngay lập tức đồng ý, thậm chí còn viết họ tên quê quán của người đó vào sổ sách. Điều này khiến nhiều người bất ngờ và suy nghĩ, liệu Thái sư có thể chỉ là một vẻ bề ngoài và thực ra cũng như những quan quyền thối nát trước đó hay không. Việc này cho thấy rõ rằng 'một người làm quan, cả họ được nhờ' và kết quả khiến nhiều người trầm trồ, thán phục. Thái sư nói rằng 'Ngươi vì có Công chúa xin cho được làm câu đương, không giống như người câu đương khác, phải chặt một ngón chân để phân biệt'.
Trong khi đó, Thái sư không chỉ không làm vợ phật lòng, không làm trái với trọng trách, mà còn để lại một bài học cho những người có ý ỷ rằng việc có người thân làm quan không đảm bảo sẽ được thụ lợi, và người luôn đặt lợi ích của quốc gia lên trên hết, không chấp nhận xu nịnh hay nhận quà để thăng quan tiến chức.
Tình huống cuối cùng có lẽ được coi là cao trào nhất, khi vua Thái Tông đề nghị phong tướng cho anh trai của Thái sư là An Quốc. Thái sư không do dự mà chỉ rõ rằng nếu An Quốc là người hiền thì vua cần phải từ chối việc phong tướng cho anh ta, để tránh gây ra những xung đột trong triều đình. Điều này cho thấy sự tài năng và suy tính cẩn trọng của Thái sư trong việc duy trì trật tự và ổn định trong triều đình.
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ - Mẫu 4
Đại Việt sử ký toàn thư được coi là bộ sách chính sử cổ nhất, viết bằng văn phong Việt Nam, là di sản quý giá của dân tộc. Điều này được nhà sử học Nguyễn Khánh Toàn đánh giá cao. Chúng ta có thể sử dụng đoạn trích về Thái sư Trần Thủ Độ làm minh chứng cho tuyên bố này.
Mặc dù chỉ là một đoạn trích ngắn, nhưng qua bút pháp tài hoa của sử gia Ngô Sĩ Liên, hình ảnh về Thái sư Trần Thủ Độ được mô tả một cách chân thực, qua những câu chuyện nhỏ. Tất cả tài năng và phẩm chất của ông được nhìn nhận một cách khách quan nhất. Trần Thủ Độ không có học vấn uyên thâm, nhưng lại có tài lược hơn người, khi làm quan dưới thời Lý, ông được nhiều người nể phục. Đỉnh cao của sự tài lược đó được ghi lại trong lịch sử khi ông giúp nhà Trần lên ngôi mà không cần phải đổ máu. Ông cho cháu trai của mình, Trần Cảnh, cưới công chúa Lý Chiêu Hoàng, rồi ép bà nhường ngôi cho chồng, từ đó nhà Trần thống nhất và thịnh vượng trong gần 200 năm. Điều này thực sự là một cuộc cách mạng yên bình, toàn bộ nhờ vào tầm nhìn xa trông rộng và lòng nhân nghĩa, phẩm chất của Trần Thủ Độ.
Khi Vua Thái Tông mới lên ngôi, chỉ mới 10 tuổi, ông chưa hiểu biết về chính trị nên phải dựa vào cha mình, Thái thượng hoàng Trần Thừa, và Thái sư Trần Thủ Độ để làm việc cho nước. Vì quyền lực quá lớn, nên trong triều có người sợ Trần Thủ Độ có ý đồ xấu, đã tố với vua. Nhưng đáng khen ngợi, khi vua hỏi về sự thật, Trần Thủ Độ đã thừa nhận mà không do dự, thậm chí còn thưởng vàng bạc, châu báu cho người dám nói thẳng. Điều này chứng tỏ ông là người trung thực, tôn trọng luật pháp, mà không quan trọng vị thế hay quyền lợi cá nhân. Trần Thủ Độ luôn mong muốn xây dựng một triều đại thịnh vượng, nên không bận tâm về việc ai nắm quyền hơn ai, mà quan trọng nhất là đoàn kết trong triều đình.
Có một sự kiện liên quan đến vợ ông, khi bà xin cho một người họ hàng được bổ nhiệm làm câu đương, điều này không khó khăn. Nhưng với tấm lòng trung thực và công bằng, ông không nhẫn lòng làm vợ buồn, vừa muốn giữ nguyên tắc, nên đã đưa ra cách giải quyết thông minh, đòi hỏi người đó phải chặt bỏ 1 ngón chân để phân biệt giữa vị họ hàng của vợ và người khác. Việc này không chỉ răn đe người khác mà còn khiến vợ không thể oán trách gì, vì ông không làm điều gì vô lý. Người nam nhi phải tề gia trị quốc bình thiên hạ.
Vì những công lao và phẩm chất, Trần Thủ Độ được tin dùng, nhà vua muốn cho anh trai của ông, An Đức, vào triều làm tướng, nhưng ông từ chối vì cho rằng: 'An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, còn nếu cho là thần hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng thì triều đình sẽ như thế nào?'. Trần Thủ Độ là người kiên định, trung thực, lại có tài mưu lược, nên việc tuyển chọn tài năng là rất khắt khe. Ông không chấp nhận vị trí của anh em mình trong triều đình chỉ vì quan hệ gia đình, bởi chỉ người hiền tài mới có thể đảm nhận trọng trách.
Cũng có một câu chuyện liên quan đến vợ của ông, Linh Từ Quốc Mẫu. Khi bị một người quân hiệu ngăn cản khi ngồi kiệu, bà trở về nhà tức giận vì cảm thấy bị coi thường. Ban đầu Trần Thủ Độ cũng tức giận, nhưng sau khi làm rõ, ông thấy người quân hiệu chỉ làm đúng quy định, nên đã thả và thưởng cho vàng lụa. Điều này chứng tỏ ông tôn trọng luật pháp và không chấp nhận ảnh hưởng cá nhân đến quốc gia và triều đình.
Nếu việc thăng quan tiến chức trở nên dễ dàng, thì còn gì là kỷ cương phép nước? Liệu có bao nhiêu người sẽ lợi dụng cơ hội này để làm những việc không tốt? Luật Hồi tỵ vẫn còn hiện hữu, làm sao có thể để anh em cùng làm quan chung một chỗ, điều này sẽ gây ra hiềm nghi và phá vỡ quy tắc. Những bậc công thần phải là tấm gương sáng cho mọi người thấy và nể sợ.
Nhà thơ Nguyễn Trãi từng viết:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường,Tống, Nguyên mỗi bên xưng để một phương
Tuy mạnh yếu có khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ - Mẫu 5
Việt Nam tuy nhỏ nhưng có những nhân vật hào kiệt hiền thì không thể phủ nhận, điều này đã được lịch sử chứng minh. Trong cuộc sống, có những người sinh ra không được biết đến nhưng lại để lại dấu ấn trên trang sách lịch sử. Thái sư Trần Thủ Độ là một trong số họ. Ông là một người tuyệt vời, và có lẽ vì thế mà Ngô Sĩ Liên đã viết về ông trong Đại việt sử ký toàn thư.
Năm 1498, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư hoàn thành, dựa trên bộ Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu và Sử Ký Tục Biên của Phan Phu Tiên. Bộ sử ký này gồm hai phần là ngoại kỉ và bản kỉ. Phần ngoại kỉ viết về lịch sử nước ta từ thời Hồng Bàng đến thế kỷ 10. Phần bản kỉ viết từ thời Đinh Tiên Hoàn đến thời Hậu Lê. Ban đầu có 15 quyển, sau đó Phạm Công Trứ viết thêm năm quyển nữa, tổng cộng 20 quyển. Bài Thái Sư Trần Thủ Độ được trích từ quyển năm của phần bản kỉ. Đoạn trích này tôn vinh một con người không chỉ có tài năng của một vị tướng giỏi mà còn có đức tính đạo đức cao. Sự thông minh của ông được mọi người công nhận và phẩm chất nhân phẩm của ông thực sự đáng ngưỡng mộ.
Đoạn trích bắt đầu bằng các mốc thời gian lịch sử cụ thể và chính xác: “Giáp Tý (1264), năm thứ 7 niên hiệu Thiên Long đời vua Trần Thánh Tông, mùa xuân, tháng giêng. Trần Thủ Độ mất, tho 71 tuổi. Ông được vua truy tặng 'Thượng phụ Thái Sư Trung Vũ đại vương' tặc giả mở đầu bằng sự kiện Trần Thủ Độ qua đời và sự truy tặng của nhà vua đối với ông. Hai chữ 'thượng phụ' là cha vua, hai chữ 'thái sư' có nghĩa là thầy của vua, đó là tước bậc cao nhất của thời phong kiến lúc bấy giờ. Mục đích của tác giả khi mở đầu bằng sự kiện đau buồn này là gì? Có phải tác giả muốn nhắc đến những công lao mà Trần Thủ Độ đã đạt được trong cuộc đời của mình? Trần Thủ Độ là người có công lớn trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi vai trò lịch sử từ thời nhà Lý sang thời nhà Trần. Không những thế ông là người có tài đầy mưu trí trong triều đình trung thành tận tụy với vua, giúp vua dựng việc lớn chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Tuy ông không có học vấn nhưng lại tài lược hơn người.
Tiếp đến, tác giả kể về bốn sự việc khi ông còn sống để thể hiện tính cách của vị thái sư này. Qua đó, ta càng hiểu rõ thêm những phẩm chất đáng quý của ông. Thứ nhất, là việc có người hạc ông là “Trần Thủ Độ quyền hơn cả vua”. Mặc dù biết rằng con người vẫn dạy nhau rằng ai chê mới là bạn, ai khen thì là thù, nhưng đó chỉ là lý thuyết. Ai cũng muốn được khen và không ai muốn bị chê, ai cũng muốn mình đẹp, vì vậy không thể chấp nhận những lời không hay về mình. Ở đây, tác giả dùng từ “hạc người” có nghĩa là kẻ tội phạm vạch tội mình. Qua hành động của người đó, ta nghĩ Trần Thủ Độ sẽ lôi ra chém đầu ngay lập tức, cũng như mỗi chúng ta khi bị vạch tội thì coi người đó là kẻ thù, nhưng Trần Thủ Độ lại chấp nhận lời vạch tội của người đã hạc tội mình. Không những thế ông còn tặng tơ lụa cho người đó. Qua đó ta thấy Trần Thủ Độ là người biết phục thiện, công minh, đoan trang và có bản lĩnh biết nhận cái sai của mình.
Thứ hai, là việc giữa Trần Thủ Độ và người lính giữ thềm cấm. Đó là việc phu nhân của Trần Thủ Độ không được cho đi qua vùng thềm cấm. Khi vợ khóc lóc bảo chúng “khinh nhờn”. Trần Thủ Độ giận lắm bèn sai quân đi bắt tên lính đó vào, cứ tưởng rằng tay lính đó khôn giữ nổi đầu nhưng sự việc lại không xảy ra như thế. Sau khi trả lời câu “văn hỏi” của ông thì tên lính kia không những không bị mất đầu mà còn được thưởng tiền, vàng, tơ lụa. Trần Thủ Độ khen:” Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa”. Như vậy có thể thấy ở Trần Thủ Độ toát lên vẻ chí công vô tư, tôn trọng phép nước và không thiên vị tình thân.
Thứ ba, là sự việc vợ của ông nhờ ông xin cho một người làm “câu đương’. Hắn cứ nghĩ vụ này được trăm phần trăm nhưng mà ông trời có mắt và con người kia cũng có mắt. Những kẻ không có tài mà đòi làm này nọ thì thật là đánh chỗ của những người có học. Trần Thủ Độ sử lý rất tỉnh táo đó là ghi tên rồi nhưng với một yêu cầu là phải chặt một ngón chân. Tên kia sợ hãi xin thôi. Câu đương thật ra cũng chỉ là một chức quan nhỏ nhưng cũng không để những kẻ không biết gì nhờ quen biết mà xin xỏ làm được. Việc làm ấy thể hiện sự đề cao công bằng phép nước, bài trừ tệ nạn đút lót, chạy chốt chức quan.
Thứ tư là việc vua quyết định đem anh em Trần Thủ Độ cùng nắm chức quan trọng trong triều đình nhưng ông ta từ chối. Ông thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình về việc đó. Theo ông, chỉ cần những người tài giỏi nhất mới được làm chứ nhiều người thì tài chính sẽ rối ren. Theo lẽ thường anh em được nhận chức thì phải cảm ơn mới phải nhưng ông nhất định từ chối để tránh việc kéo bè kết đảng làm khó cho vua. Điều đó thể hiện Trần Thủ Độ là người không tự lợi, hết mình về việc chung của đất nước, không thiên vị anh em, chung thành và làm mọi điều tốt cho vua.
Để làm nổi bật chân dung nhân cách Trần Thủ Độ, tác giả đã có lối viết sử hấp dẫn, tạo những yếu tố bất ngờ, kịch tính nhưng lại rất kiệm lời. Qua mỗi sự kiện, người đọc đều thấy rõ điều đó. Kết quả các sự kiện luôn ngược với dự đoán của người đọc. Trước người hặc tội mình, ta tưởng Trần Thủ Độ sẽ nổi giận rồi trừng phạt nhưng ngược lại, thật bất ngờ khi ông trả lời: 'Đúng như lời người ấy nói' và bất ngờ hơn nữa, thưởng tiền lụa cho người ấy. Tác giả đưa người đọc đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, bất ngờ sau lớn hơn bất ngờ trước.
.............
Mời các bạn tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!