TOP 9 bài Phân tích về thể loại thơ Thất ngôn bát cú Đường luật hay, đặc sắc nhất, sẽ mang lại cho bạn những kiến thức quan trọng về định nghĩa, đặc điểm và ý nghĩa của thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật trong văn học Việt Nam.
Thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật được sử dụng để thể hiện tình yêu quê hương, đất nước. Với 9 ví dụ phân tích thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật xuất sắc dưới đây, bạn sẽ hiểu rõ hơn về nó và có thể viết văn phân tích về một loại văn học rất hay.
Cấu trúc phân tích thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật
Phần 1: Khởi đầu
1. Bắt đầu
- Tổng quan về thể loại thơ Thất ngôn bát cú đường luật.
2. Nội dung chính
* Nguyên gốc:
Xuất hiện lần đầu vào thời kỳ nhà Đường tại Trung Quốc.
Thể loại thơ thất ngôn bát cú đường luật được nhập vào Việt Nam từ thời kỳ Bắc thuộc.
* Đặc điểm của thể loại thơ:
- Ngắn gọn nhưng có cấu trúc chặt chẽ. Mỗi bài thơ gồm 8 câu, mỗi câu có 7 tiếng.
- Có hai loại vần: Vần bằng và vần trắc, tùy thuộc vào sự sáng tạo và ý thức nghệ thuật của người viết thơ. Tuy nhiên, số lượng bài thơ vần bằng nhiều hơn.
- Cách vần: Chữ cuối của câu thứ nhất hiệp vần với chữ cuối của câu thứ hai và thứ tư. Chữ cuối của câu thứ hai lại hiệp vần với chữ cuối của câu thứ tám.
- Bố cục: Gồm 4 phần (Mở đầu - Triển khai - Bình luận - Kết luận)
- 2 câu mở đầu: Giới thiệu về vấn đề hoặc đối tượng mà bài thơ đề cập
- 2 câu triển khai: Phát triển ý tưởng từ 2 câu đầu tiên
- 2 câu bình luận: Nhận xét, mở rộng ý kiến từ câu triển khai
- 2 câu kết luận: Tổng kết ý kiến, kết thúc bài thơ
- Minh họa thông qua một bài thơ thể loại thất ngôn bát cú đường luật.
* Đánh giá về thể loại thơ:
- Thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật ngắn gọn, súc tích, phong phú về âm nhạc.
- Thi pháp chặt chẽ, yêu cầu tuân thủ số câu chữ cố định, không được thêm bớt, do đó không dễ thực hiện.
3. Kết luận
- Khẳng định giá trị và vị trí quan trọng của thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật.
Kế hoạch 2
a. Bắt đầu:
Giới thiệu về thể loại thơ Thất ngôn bát cú Đường luật.
b. Nội dung chính:
- Mô tả đặc điểm của thể loại thơ:
- Mỗi bài thơ gồm bốn câu, mỗi câu có bảy chữ.
- Số dòng và số chữ trong mỗi câu không được thay đổi.
- Có thể gặp hai loại vần: vần bằng hoặc vần trắc, nhưng vần bằng phổ biến hơn.
- Phương pháp đối: Đôi khi đối hai câu đầu hoặc hai câu cuối, cũng có thể không đối.
- Cách vần: Thường là chữ cuối câu một vần với chữ cuối câu hai và bốn, trong khi chữ cuối câu hai vần với chữ cuối câu tám.
- Cấu trúc bài thơ: Gồm 4 phần: mở đầu, phát triển, chuyển tiếp, kết thúc; cũng có thể chia thành 2 phần: mô tả khởi đầu và kết thúc.
- Đánh giá tổng quan:
- Ưu điểm: Thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật kết hợp sự truyền thống và sáng tạo, mang đến âm nhạc lôi cuốn và nội dung đa dạng.
- Nhược điểm: Dù có nhiều đặc điểm phức tạp, nhưng vẫn đòi hỏi sự chặt chẽ và khó khăn trong việc sáng tác.
c. Kết thúc:
Phân tích vị trí quan trọng của thể loại thơ Thất ngôn bát cú đường luật: Nó đóng vai trò quan trọng trong lịch sử thơ ca, góp phần vào sự phát triển của văn học.
Kế hoạch 3
I. Bắt đầu:
- Tổng quan: Trong văn học của Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ trung cổ, thể thơ thất ngôn bát cú đường luật đóng vai trò quan trọng.
- Các nhà thơ vĩ đại như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tác nhiều bài thơ theo thể loại này.
II. Nội dung chính:
- Giới thiệu nguồn gốc của thể thơ: Bắt nguồn từ thời kỳ Đường ở Trung Quốc và được nhập vào Việt Nam từ thời xa xưa.
- Mô tả đặc điểm của thể thơ:
- Bao gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ.
- Bài thơ chia thành bốn phần đề - thực - luận - kết.
- Phần đề bao gồm hai câu đầu, giới thiệu tổng quan về vấn đề được đề cập.
- Phần thực, là hai câu thứ ba và thứ tư, mô tả chi tiết vấn đề.
- Phần luận, gồm hai câu năm và sáu, thảo luận, mở rộng ý kiến, làm sâu thêm vấn đề.
- Phần kết, là hai câu cuối cùng, kết thúc, tóm tắt nội dung.
- Bài thơ Đường luật thường sử dụng vần bằng ở tiếng cuối của câu 1 - 2 - 4 - 6 - 8.
- Bài thơ thường có niêm, câu 1 tương tự câu 8; câu 2 tương tự câu 3; câu 4 tương tự câu 5; câu 6 tương tự câu 7. Niêm tạo sự đồng nhất về B - T theo nguyên tắc: “Nhất, tam, ngũ bất luận; Nhị, tứ, lục phân minh”.
- Thường thì thơ thất ngôn bát cú Đường luật có thể ngắt nhịp 3/4 hoặc 4/3, đôi khi ngắt nhịp theo 2/2/3 hoặc 3/2/2 tùy theo từng bài.
- Ưu - nhược điểm: Thơ thất ngôn bát cú Đường luật ngắn gọn, súc tích; giàu nhạc điệu; lời ít nhưng ý nhiều nhưng khá gò bó, yêu cầu sự chặt chẽ trong niêm, luật, do đó không phải làm dễ dàng.
- Trong quá trình viết, nên sử dụng các ví dụ từ các bài thơ đã học để minh họa cho rõ ràng.
III. Kết luận:
- Phân tích giá trị của dòng thơ này.
Thuyết minh về thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật
Thuyết minh về thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật - Mẫu 1
Thất ngôn bát cú Đường luật là một loại thơ rất độc đáo và sáng tạo, thích hợp để truyền đạt tình cảm với quê hương, đất nước. Những ý nghĩa sâu sắc mà thể thơ mang lại đã góp phần làm tăng giá trị của nó. Các bài thơ chứa đựng những tâm trạng mãnh liệt của tác giả, phá vỡ một phần sự chặt chẽ của thể thơ cổ, và vẫn giữ được sức sống với thời gian.
Cấu trúc của thể thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nếu âm cuối của câu 1 đồng âm với câu 2, 4, 6, 8 thì gọi là thể bằng, còn không thì gọi là thể trắc. Thể thơ tuân theo luật bằng trắc rất nghiêm ngặt. Quy tắc này tạo ra một âm nhạc tinh tế, mềm mại, tạo nên một khung cảnh thơ mộng như một bản tình ca. Có những quy tắc về luật bằng trắc ở mỗi âm cuối của từng câu thơ: các âm 'nhất - tam - ngũ' không quan trọng; 'nhị - tứ - lục' phải giống nhau. Tuy nhiên, trong quá trình sáng tác, các nhà thơ đã linh hoạt giảm bớt sự cứng nhắc của luật bằng - trắc để tạo cho tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.
Trong thơ thất ngôn bát cú, số dòng và số chữ trong mỗi câu không thể thêm hoặc bớt. Luật bằng trắc quy định rằng bài thơ có thể gieo vần bằng hoặc trắc, nhưng vần bằng là phổ biến. Cách sắp xếp: hai câu đầu hoặc hai câu cuối đối nhau, cũng có thể đối cả hai câu đầu và hai câu cuối hoặc không đối. Cách nối vần: Thường thì chữ cuối của câu một gieo vần với chữ cuối của câu hai và câu bốn. Chữ cuối của câu hai vần với chữ cuối của câu cuối. Bố cục thường được chia thành bốn phần: giới thiệu, thừa nhận, chuyển đổi, hòa hợp; hai câu đầu mô tả cảnh, hai câu cuối mô tả tâm trạng.
Luật bằng trắc là một yếu tố quan trọng tạo nên nhịp điệu của thơ bảy chữ. Nó còn được biết đến như luật về việc phối hợp âm thanh giữa các tiếng trong từng câu và từng đoạn trong bài thơ. Thanh bằng bao gồm thanh huyền và thanh ngang, thanh trắc bao gồm thanh hỏi, sắc, ngã, nặng. Sự phối hợp âm thanh trong mỗi câu thơ được quy định chặt chẽ theo quy tắc 'Nhất tam ngũ bất luận' (Không xét tiếng 1, 3, 5) và 'Nhị tứ lục phân minh' (Tiếng 2, 4, 6 được quy định rõ ràng). Quan hệ giữa âm thanh bằng trắc trong các câu cũng được quy định một cách chặt chẽ.
Trong thơ thất ngôn bát cú, quan hệ bằng trắc giữa các câu trong mỗi phần đề, thực, luận, kết phải đối nhau; còn 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 phải niêm với nhau. Theo quan điểm, ta có thể thấy rõ sự qui định nghiêm ngặt về niêm, luật trong thơ thất ngôn bát cú. Chỉ cần dựa vào tiếng thứ hai của câu mở đầu, ta có thể biết bài được viết theo luật bằng hay trắc, ví dụ:.... Tuy nhiên, trong thơ hiện đại không đòi hỏi niêm luật này.
Ưu điểm của thể thơ này chính là sự kết hợp hài hoà cổ điển và nhạc điệu trầm bổng của thời Đường. Nội dung của thơ thất ngôn bát cú rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nó cũng mang theo nhược điểm như: thi pháp chặt chẽ, nghiêm ngặt, đa dạng nhưng không dễ sáng tác, số câu và số chữ bắt buộc không thể thay đổi.
Thất ngôn bát cú Đường luật là một thể thơ rất đặc sắc và thú vị, thích hợp để diễn đạt những tình cảm về quê hương và đất nước. Những ý nghĩa đặc sắc trong thể thơ đã giúp nâng cao giá trị của nó. Những bài thơ chứa đựng những cảm xúc mạnh mẽ từ tác giả, phá vỡ một phần nào sự chặt chẽ của các quy tắc trong thể thơ cổ, và vẫn giữ được sức sống qua thời gian. Tóm lại, thất ngôn bát cú thực sự là một loại thể thơ tuyệt vời, giúp các nhà thơ tạo ra những bài thơ tuyệt vời và những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc được truyền đi qua thời gian.
Thuyết minh về thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật - Mẫu 2
Thơ Đường luật là một thành tựu to lớn của văn học cổ điển Trung Hoa. Từ khi ra đời vào thời nhà Đường, các loại thể thơ này đã nhanh chóng chiếm ưu thế so với thể thơ cổ điển từ trước. Thơ Đường luật được chia thành ba loại: thể tứ tuyệt, bát cú và trường thiên. Trong đó, thể thơ thất ngôn bát cú là một trong những dạng thơ phổ biến và quen thuộc nhất trong văn học Việt Nam thời trung đại. Nhiều tác phẩm thơ ca đáng chú ý để lại cho thế hệ sau đều sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú. Bài thơ 'Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác' của Phan Bội Châu là một ví dụ điển hình:
'Vẫn là nhân vật kiệt xuất, vẫn đậm chất dân tộc
Chạy hết chân không thoát, thì hãy ở trong tù
Dù đã xa quê hương, chìm trong biển khơi
Thân phận đã từng hào kiệt, lại bị giam giữ ở nơi nào trong năm châu
Giữa bao nỗi lo âu, tay vẫn ôm chặt cuốn kinh kịch của cuộc đời
Mỉm cười với những oán trách, những oán trách
Trong tâm hồn vẫn còn cháy bùng ngọn lửa của sứ mệnh
Không có điều gì có thể khiến ta sợ hãi'
Bài thơ được viết ra khi Phan Bội Châu bị bọn phiến quân ở Quảng Đông bắt giữ trong nhà tù. Bài thơ thể hiện sự kiêng nhẫn và định kiến kiên cường, không khuất phục của tác giả trước khó khăn trong nhà tù.
Bài thơ này gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ, tổng cộng năm mươi sáu chữ (từ).
Về phần cấu trúc, bài thơ được phân chia thành bốn phần: Đề – Thực – Luận – Kết. Mỗi phần đều có hai câu thơ và đảm nhận một nhiệm vụ riêng.
Câu thứ nhất và thứ hai (Đề) miêu tả tinh thần bình tĩnh, ung dung, đầy phong cách của người chiến sĩ cách mạng trong tình thế giam giữ. Câu thứ ba và thứ tư (Thực) nói về cuộc sống trắc trở của người anh hùng cách mạng, liên quan chặt chẽ đến hoàn cảnh chung của quốc gia, nhân dân. Hai câu thứ năm và thứ sáu (Luận) thể hiện tinh thần kiên cường, quyết tâm phi thường của người hùng mong muốn tạo nên một sự nghiệp vĩ đại. Hai câu cuối cùng (Kết) khẳng định ý chí mạnh mẽ, kiên định trước mọi khó khăn, thử thách.
Về vần, bài thơ tuân thủ vần bằng ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8, nghĩa là tiếng 'lưu' vần với các từ như 'tù', 'châu', 'thù', 'đâu', và sử dụng phong cách 'độc vận', tức là cả bài chỉ tuân theo một vần duy nhất. Tuy nhiên, vần trong bài cũng được giải thoát một chút để thể hiện tâm trạng, phong cách của nhà thơ.
Đối là việc sắp đặt hai câu đi song song với nhau sao cho ý và từ trong hai câu đó cân đối, phản ánh lẫn nhau một cách hài hòa. Trong bài thơ, tác giả tuân thủ đúng luật thơ Đường, các câu đối với nhau không chỉ cân xứng về ý nghĩa mà còn cân đối về âm vận, như ở câu ba và bốn:
'Đã xa quê nhà giữa bốn bể,
Phải chăng ta đã trở thành kẻ phạm tội giữa năm châu'
Và ở câu năm, câu sáu:
'Vòng tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù'
Dựa vào từ thứ hai của câu đầu, ta có thể biết bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật được viết theo luật bằng hoặc trắc. Trong bài 'Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác', từ thứ hai là 'là' thuộc thanh bằng, vì vậy bài thơ tuân theo luật bằng.
Niêm là sự kết hợp. Đó là sự phối hợp về âm thanh giữa hai câu thơ trong bài thơ đường luật. Người xưa dựa vào từ thứ hai, thứ tư, và thứ sáu trong câu thơ để xác định niêm 'Nhất, tam, ngũ bất luận – Nhị, tứ, lục phân minh'. Hai câu thơ niêm với nhau khi từ thứ hai, thứ tư, và thứ sáu của hai câu đều vần (bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc). Câu một luôn niêm với câu tám, câu hai với câu ba, câu bốn với câu năm, câu sáu với câu bảy. Ví dụ, trong bài này, câu 1 có các từ thứ hai, thứ tư, và thứ sáu là 'là' – 'kiệt' – 'phong' (B-T-B) niêm với từ thứ hai, thứ tư, và thứ sáu ở câu 8 là 'nhiều' – 'hiểm' – 'gì' (cũng là B-T-B). Tương tự, ở câu hai có từ thứ hai, thứ tư, và thứ sáu là 'mỏi'- 'thì'- 'ở' (T-B-T) niêm với từ ở câu 3 là 'khách'- 'nhà' – 'bốn' (cũng là T-B-T), và cứ thế niêm cho đến hết bài. Khi các câu trong một bài thơ đặt không đúng, không niêm với nhau theo cách đã định, gọi là thất niêm.
Thuyết minh về thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật - Mẫu 3
Thất ngôn bát cú là thể thơ phổ biến trong các tác phẩm của Đường Luật được các nhà thơ Việt Nam rất yêu thích. Đây là hình thức sử dụng câu thơ bảy chữ làm đơn vị nhịp điệu.
Ra đời từ sớm ở Trung Quốc, xuất phát từ thơ bảy chữ cổ điển (thất ngôn cổ thể), đến thời Đường, thể thơ thất ngôn bát cú phát triển mạnh mẽ. Trong quá trình tiếp xúc văn hóa hàng nghìn năm Bắc thuộc, hình thức thơ này đã tràn vào Việt Nam, được các nhà thơ cổ điển Việt Nam yêu thích, như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan... Sau năm 1930, các nhà thơ hiện đại, đặc biệt là những người thuộc trào lưu thơ mới đã mang lại một cuộc cách mạng trong thi ca, vượt qua những hình thức niêm luật cứng nhắc của thơ cổ nhưng thể thơ thất ngôn bát cú vẫn được sử dụng. Tuy nhiên, ngoài một số tác phẩm viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, thơ bảy chữ hiện đại đã có những thay đổi: bao gồm nhiều thể loại thơ xen kẽ, cách gieo vần, niêm luật linh hoạt hơn, hình thức này đã tạo ra những tác phẩm dài, đặc biệt là bản trường ca 'Theo chân Bác' của nhà thơ Tố Hữu.
Thể thơ thất ngôn bát cú được chia thành bốn phần, mỗi phần đảm nhận hai câu với nhiệm vụ cụ thể. Hai câu đầu giới thiệu về thời gian, không gian, sự vật, sự việc. Hai câu tiếp theo mô tả, diễn đạt về sự vật, sự việc. Hai câu tiếp theo tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu cuối tóm tắt toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao. Trong một số trường hợp, phần mô tả và phần suy luận chia sẻ nhiệm vụ vừa mô tả vừa suy luận, như hai câu mô tả và suy luận trong bài 'Qua đèo Ngang' của BHTQ:
'Bên núi rừng lom khom, tiều tiện vài chú
Bên sông rạch lác đác, chợ mấy nhà.'
'Nhớ quê nhà thương tâm, gia đình gia cảnh
Thương dân mình mỏi lòng, con nước non quê hương'
Luật bằng trắc là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên nhịp điệu của thơ bảy chữ, còn được biết đến là luật về sự phối thanh giữa các tiếng trong từng câu và các câu trong từng khổ, từng bài. Thanh bằng gồm thanh huyền và thanh ngang, thanh trắc bao gồm thanh hỏi, sắc, ngã, nặng. Trong mỗi câu thơ, sự phối thanh được quy định khá chặt chẽ theo quan điểm 'Nhất tam ngũ bất luận' (Các tiếng 1, 3, 5 không xét tới) và 'Nhị tứ lục phân minh' (Các tiếng 2, 4, 6 được quy định rõ ràng). Quan hệ bằng trắc giữa các câu cũng được qui định chặt chẽ. Nếu dòng trên là bằng mà dòng dưới là trắc thì gọi là đối, nếu dòng dưới cũng là bằng hoặc ngược lại thì gọi là niêm với nhau. Trong thơ thất ngôn bát cú, quan hệ bằng trắc giữa các câu trong mỗi phần đề, thực, luận, kết phải đối nhau; còn 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 phải niêm với nhau. Theo quan điểm, ta có thể thấy rõ sự quy định nghiêm ngặt về niêm, luật trong thơ thất ngôn bát cú. Chỉ cần dựa vào tiếng thứ hai của câu mở đầu, ta có thể biết bài được viết theo luật bằng hay trắc, ví dụ:.... Tuy nhiên, trong thơ hiện đại không đòi hỏi niêm luật này.
Vần là một phần quan trọng của tiếng không kể thanh và phụ âm đầu (nếu có). Sự phối vần là một trong những nguyên tắc quan trọng của sáng tác thơ, khi những tiếng có phần vần giống nhau được coi là hiệp vần với nhau. Khác biệt với thơ lục bát, thơ thất ngôn bát cú gieo vần chân, vần được gieo ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8.
Ngoài ra, nhịp thơ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nhạc điệu của thơ. Cách ngắt nhịp không chỉ đơn giản là tạo ra sự ngừng nghỉ trong quá trình đọc mà còn quan trọng hơn, nó góp phần thể hiện nội dung, ý nghĩa cần được truyền đạt. Trong thể loại thơ này, ta có thể ngắt nhịp bốn ba hoặc ba bốn nhiều hơn, phổ biến hơn. Tuy nhiên, trong một số tác phẩm, tác giả đã thay đổi cách ngắt nhịp thông thường nhằm phục vụ một ý đồ nghệ thuật cụ thể. Lấy ví dụ ở bài 'Qua đèo Ngang' của BHTQ:
'Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.'
Cách ngắt nhịp 2/2/3 đã phần nào cho thấy sự heo hắt của cảnh vật cùng với sự cô đơn, buồn tủi của con người.
Thuyết minh về thể loại thơ Thất ngôn bát cú theo Đường luật - Mẫu 4
Trong quá trình phát triển lịch sử, thể loại thơ Thất ngôn bát cú được ghi nhận trong sách cổ và xuất hiện trong các tác phẩm văn học trong thời Đường. Thể loại thơ này cũng được sử dụng trong một thời gian dài, trong thời kỳ phong kiến và được ưa chuộng trong việc tuyển chọn nhân tài. Có thể thấy rằng thể loại thơ này đã thu hút sự quan tâm của các nhà văn quý tộc.
Cấu trúc của thể loại thơ Thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu có 7 chữ. Nếu tiếng thứ hai của câu đầu tiên là bằng thì gọi là thể bằng, nếu là vần trắc thì gọi là thể trắc. Quy định về luật bằng trắc trong thể loại thơ này khá nghiêm ngặt, tạo nên một âm nhạc tinh tế, luôn du dương như một bản tình ca da diết, như những đợt sóng dâng trào mà lại nhịp nhàng từng đợt một. Các tiếng ở mỗi câu thơ được quy định rất cẩn thận theo quy tắc 'Nhất tam ngũ bất luận' và 'Nhị tứ lục phân minh'. Trong quá trình sáng tác, các tác giả đã giảm tính gò bó của thể loại này để tạo ra những câu thơ lãng mạn, sáng tạo và bay bổng. Điều này được thể hiện rõ trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” viết theo thể bằng.
Bước qua Đèo Ngang, bóng xế tà (t T b B t T B)
Cỏ cây chen đá lá xen hoa t B b T t B B
Có thể dễ dàng nhận biết về vần cũng như thể loại thơ thông qua việc vần bằng được sử dụng ở tiếng cuối của các câu 1-2-4-6-8. Các vần này tạo sự liên kết ý nghĩa và độc đáo, đồng thời tạo ra một âm nhạc hấp dẫn cho thơ. Điều này cũng được thể hiện rõ trong bài “Qua Đèo Ngang”, khi vần “a” được sử dụng để tạo hiệu ứng vang vọng và lâu dài cho câu thơ.
Một điểm nữa cần lưu ý là thể thơ Đường luật cũng chia sẻ điểm tương đồng về âm thanh ở tiếng thứ hai của các cặp câu, bao gồm các cặp 1 – 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7. Điều này cho thấy thể thơ Đường luật có một cấu trúc chặt chẽ và một âm điệu nhịp nhàng. Trong bài thơ “Qua Đèo Ngang”, câu 1 – 8 chia sẻ cùng một nhịp điệu ở tất cả các tiếng, ngoại trừ tiếng thứ sáu (TTBBTB), trong khi đó, câu 2-3 chia sẻ các tiếng 2, 4, 6 (BTB).
Ngoài ra, ta cũng nhận thấy sự đối ngẫu và tương hỗ trong thể thơ, đặc biệt ở các câu 3 – 4, 5 – 6. Cấu trúc của thể thơ thất ngôn bát cú rất rõ ràng, với bốn phần khác nhau. Hai câu đầu thường giới thiệu ý nghĩ chung về cảnh vật, trong khi hai câu tiếp theo miêu tả chi tiết cảnh vật để làm rõ cảm xúc. Tiếp theo là hai câu luận, thường bàn luận và mở rộng ý tưởng chính của nhà thơ. Cuối cùng, hai câu kết dùng để tổng kết bài thơ và nhấn mạnh cảm xúc đã diễn tả ở các câu trước đó. Cấu trúc này giúp tác giả thể hiện cảm xúc một cách sâu sắc và sáng tạo.
Thuyết minh về thể loại thơ Thất ngôn bát cú Đường luật - Mẫu 5
Trong văn học dân tộc, sự đa dạng và phong phú không chỉ đến từ các tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, mà còn từ sự đa dạng về thể loại. Trong thơ ca, thể thơ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự hấp dẫn cho một bài thơ, và một trong những thể thơ được ưa chuộng nhất là thất ngôn bát cú đường luật.
Thể loại thơ Thất ngôn bát cú đường luật ra đời và phát triển từ thời kỳ Đường Trung Quốc, được sử dụng phổ biến trong thi cử và tuyển chọn nhân tài cho triều đình. Ở Việt Nam, thể thơ này được nhập vào trong quá trình Trung Quốc thực hiện đồng hóa dân tộc, nhưng lại thường bị chống đối. Tuy nhiên, thể loại thơ này vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển trong văn hóa Việt Nam.
Tuy nhiên, dù đã tiếp nhận những yếu tố tốt đẹp từ bên ngoài, cha ông ta vẫn làm điều đó một cách sáng tạo thay vì một cách cứng nhắc. Trong việc tiếp nhận, họ không chỉ chấp nhận mà còn tạo ra nhiều sáng tạo. Trong số đó, thơ song thất lục bát đã được các tác giả trung đại sáng tạo và đóng góp vào văn học dân tộc.
Thể thơ thất ngôn bát cú là một thể thơ gồm tám câu mỗi câu bao gồm bảy chữ. Cấu trúc này được phản ánh trong tên gọi của thể thơ: “Thất ngôn bát cú” trong đó thất ngôn là bảy chữ và bát cú là tám câu. Thể thơ này chia thành hai dạng: thể bằng và thể trắc. Thể trắc được đặc trưng bởi vần trắc như trong bài “Qua Đèo Ngang”:
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa”
Qua câu thơ này, chúng ta có thể nhận biết vần trắc trong tiếng thứ hai của câu thứ nhất, ví dụ này chứng minh rằng đây là thể trắc. Cấu trúc bằng trắc của thể thơ song thất lục bát tạo điều kiện cho sự uyển chuyển, linh hoạt trong âm điệu, tạo ra một sự du dương nhưng vẫn cân đối. Quy tắc về vần bằng trắc như sau: nhất – tam – ngũ bất luận, nhị – tứ – lục phân minh. Thể thơ này rất nghiêm ngặt, không tuân thủ có thể coi là vi phạm luật.
Xét về cấu trúc của thể thơ song thất lục bát, chúng ta có thể thấy bốn phần chính. Hai câu đầu là câu phá đề, giới thiệu vấn đề của bài thơ. Hai câu tiếp theo là câu thừa đề, chuyển tiếp từ giới thiệu sang chủ đề chính. Hai câu này cùng được gọi là câu đề. Hai câu tiếp theo là câu thực, giải thích chủ đề chi tiết hơn. Hai câu sau đó là câu luận, mở rộng vấn đề. Cuối cùng là câu kết, tổng kết nội dung. Về âm điệu, thể thơ này rất linh hoạt, có thể là nhịp 4/4 hoặc nhịp 2/2/2/2 như trong ví dụ sau:
“Bước tới/đèo ngang/ bóng xế tà
Cỏ cây chen đá/ lá chen hoa”
Về cơ bản, thể thơ song thất lục bát có nguồn gốc từ văn học Trung Quốc và sau đó được du nhập vào văn học Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc. Đây là một thể thơ yêu cầu tính quy luật cao, với cấu trúc bằng trắc và nhịp điệu phong phú.
Thuyết minh về thể thơ Thất ngôn bát cú - Mẫu 6
Trong văn học Việt Nam, có nhiều loại thể thơ xuất sắc, đã tạo nên sự thành công cho nhiều thi sĩ. Trong kho tàng thơ ca của chúng ta, thể thơ thất ngôn bát cú đóng góp không nhỏ.
Cấu trúc thanh bằng, trắc trong thể thơ thất ngôn bát cú được sắp xếp theo nguyên tắc 'Nhất, tam, ngũ bất luận; Nhị, tứ, lục phân minh', xen kẽ nhau. Điều này tạo ra sự uyển chuyển, linh hoạt trong thể thơ. Ví dụ như câu thơ sau:
'Đêm khuya reo vang tiếng trống dồn'
Thanh B............... T............. B............
'Trái tim hồng nhan nổi bật giữa non xanh.'
Thanh T........ B.......... T.............
(Tự tình 2 - Hồ Xuân Hương).
Tiếp theo về quy tắc thơ thông thường, thể thơ thất ngôn bát cú có thể được sáng tạo theo 2 phương pháp thông dụng:
Thất ngôn bát cú theo Đường luật: Tuân theo quy tắc nghiêm ngặt về Luật, Niêm và Vần, cũng như có cấu trúc rõ ràng.
Thất ngôn bát cú theo Cổ phong: Không ràng buộc bởi quy tắc cụ thể, có thể sử dụng một hoặc nhiều vần, nhưng vẫn phải tuân thủ nguyên tắc âm nhạc, có sự xen kẽ giữa vần bằng và vần trắc để dễ đọc.
Một cách tiếp cận khác là theo Hàn luật. Các bài thơ thất ngôn bát cú viết bằng chữ Nôm thường được gọi là thơ Hàn luật.
Ví dụ như trong bài tự tình hai của Hồ Xuân Hương, chúng ta có thể thấy các kỹ thuật gieo vần được áp dụng như thế nào:
'Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.'
Ở đây ta thấy từ 'dồn' kết hợp với các từ 'non', 'tròn', 'hòn', 'con'. Như vậy, vần chân thường được ưu tiên trong các bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú.
Về cấu trúc của bài thơ theo thể thất ngôn bát cú, ta thấy bốn phần: đề, thực, luận, kết. Hai câu đề nêu cảm nghĩ chung, hai câu thực miêu tả chi tiết, hai câu luận mở rộng ý tưởng, hai câu kết khép lại bài thơ và nhấn mạnh cảm xúc đã trình bày.
Nhờ vào luật và cấu trúc đó, một bài thơ thể thất ngôn bát cú trở nên phong phú và đầy sức hút.
Giới thiệu về thể thơ thất ngôn bát cú theo Đường luật - Mẫu 7.
Thể thơ Đường luật bắt nguồn từ Trung Quốc và đã lan rộng mạnh mẽ đến Việt Nam. Thể thơ này tuân theo một hệ thống quy tắc phức tạp gồm luật, niêm, vần, đối và bố cục.
Thể thơ thất ngôn bát cú bao gồm tám câu mỗi câu có bảy chữ. Luật thơ Đường đã từng xuất hiện từ thời đại Đường ở Trung Quốc, và mỗi bài thơ thất ngôn bát cú có tổng cộng 56 chữ.
Ví dụ, trong bài thơ 'Qua đèo Ngang' của Bà huyện Thanh Quan, các từ cuối cùng của các câu 1, 2, 4, 6, 8 gieo vần với nhau, tạo nên sự nhịp nhàng và mềm mại cho bài thơ.
Có sự đối chiếu giữa câu 3 và câu 4, câu 5 và câu 6, tạo ra sự tương phản và tương đồng trong việc sử dụng từ ngữ. Ví dụ rõ nhất là trong bài 'Qua Đèo Ngang':
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Trong thơ Đường luật, sự đối chiếu giữa các từ như 'lom khom' và 'lác đác', 'dưới núi' và 'bên sông', 'nhớ nước' và 'thương nhà' được thể hiện rất rõ ràng và cân nhắc, không chỉ về ý nghĩa mà còn về âm điệu.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Sự đối chiếu giữa các câu trong thơ Đường luật được thực hiện một cách cân nhắc và chỉnh chu, nhưng khi câu thứ 3 không đối chiếu với câu thứ 4, câu thứ 5 không đối chiếu với câu thứ 6 thì được gọi là 'thất đối'.
Ngoài ra, thể thơ này cũng tuân theo nguyên tắc bằng trắc, đặc biệt là nguyên tắc niêm. Vần được sử dụng để tạo âm điệu trong thơ, thường xuất hiện ở cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8.
Trong suốt thời kỳ phong kiến, thể thơ này đã được sử dụng rộng rãi cho việc thi tuyển nhân tài, và đã trở nên phổ biến ở Việt Nam sau khi được tiếp thu từ Trung Quốc. Có nhiều bài thơ nổi tiếng thuộc thể loại này, đặc biệt là khi các tác giả sáng tạo để làm giảm tính gò bó của luật bằng – trắc, tạo điều kiện cho tâm hồn lãng mạn bay bổng trong từng câu thơ.
Thể thơ thất ngôn bát cú đã xuất hiện từ thời nhà Đường. Trong thời kỳ phong kiến, thể thơ này được ứng dụng trong việc tuyển chọn nhân tài. Ở Việt Nam, thể thơ này trở nên phổ biến từ thời kỳ Bắc thuộc, thường được các nhà văn quý tộc sử dụng.
Bài thơ thất ngôn bát cú có cấu trúc gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nếu chữ thứ hai của câu 1 là vần bằng thì gọi là thể bằng, nếu là vần trắc thì gọi là thể trắc. Luật bằng trắc được tuân thủ rất nghiêm ngặt trong thể thơ này, tạo nên một mạng âm thanh tinh tế, cân đối, như một bản tình ca du dương. Các tác giả đã sáng tạo để làm giảm tính gò bó của luật bằng - trắc, cho phép tâm hồn lãng mạn bay bổng trong từng câu thơ.
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
T T B B T T B
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
T B B T T B B
Về vần, thường thì thể thơ này có vần bằng ở tiếng cuối các câu 1-2-4-6-8. Vần không chỉ giúp liên kết ý nghĩa mà còn tạo nên âm điệu cho thơ. Ví dụ như trong bài 'Qua Đèo Ngang', vần vẫn được giữ nguyên là 'a'.
Thể thơ cũng có sự tương tự về âm thanh ở tiếng thứ hai trong các cặp câu: 1 - 8, 2 - 3, 4 - 5, 6 - 7. Điều này tạo ra một cấu trúc chặt chẽ và nhịp nhàng trong âm thanh cho bài thơ. Trong bài 'Qua Đèo Ngang': câu 1 - 8 giống nhau ở tất cả các tiếng, trừ tiếng thứ 6 (TTBBTB) câu 2-3 giống nhau ở các tiếng 2, 4, 6 (BTB)...
Về đối, thể thơ có sự đối ngẫu tương hỗ hoặc đối ngẫu tương phản ở các câu: 3 - 4, 5 – 6. Ở bài thơ 'Qua Đèo Ngang' câu 3 - 4 hỗ trợ nhau để thể hiện sự sống thưa thớt, ít ỏi của con người giữa núi đèo hoang sơ, câu 5-6 cùng thể hiện nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả. Các câu đối cả về từ loại, âm thanh, ý nghĩa.
Cấu trúc của thể thơ thất ngôn bát cú bao gồm bốn phần: Hai câu đề thể hiện cảm nghĩ chung, hai câu thực miêu tả chi tiết, hai câu luận mở rộng ý tưởng chính và hai câu kết tổng kết lại cảm xúc đã trình bày. Cấu trúc này giúp tác giả thể hiện được nguồn cảm hứng sáng tạo và cảm xúc mãnh liệt trong việc sáng tác bài thơ.
Về cách ngắt nhịp, thể thơ thường sử dụng 3 - 4 hoặc 4 - 3 (2 - 2 - 3; 3 - 2 - 2). Cách ngắt nhịp này tạo ra một nhịp điệu êm đềm, phản ánh dòng cảm xúc của nhà thơ.
Thể thơ thất ngôn bát cú thực sự là một thể loại hoàn hảo để thể hiện những tình cảm sâu sắc, mãnh liệt về quê hương và thiên nhiên. Điều này tăng thêm vẻ đẹp bình dị cho thể thơ. Một số nhà thơ đã vượt qua sự gò bó của luật bằng - trắc để thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Tóm lại, thể thơ thất ngôn bát cú mãi mãi là một điểm sáng để những nhà thơ sáng tạo nhất viết nên những tác phẩm nghệ thuật tinh tế cho thế hệ sau.
Phân tích về thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật
Từ lâu, thơ Đường đã được xem là một biểu hiện tiêu biểu của thơ cổ điển Trung Quốc. Ảnh hưởng của thơ Đường đã lan rộng đến các nền văn hóa Đông Á, bao gồm cả Việt Nam.
Thể thơ thất ngôn bát cú là một dạng thể thơ cổ, xuất hiện sớm tại Trung Quốc. Đến thời nhà Đường, nó mới được các nhà thơ đặt ra quy định cụ thể, rõ ràng và có ảnh hưởng lâu dài trong thời kỳ phong kiến. Vì thế, thường được gọi là thể thơ Thất ngôn bát cú theo Đường luật.
Thể thơ này đã được các vị vua của Trung Quốc và Việt Nam sử dụng cho việc tổ chức các kỳ thi tuyển chọn nhân tài, rất phổ biến ở Việt Nam vào thời kỳ Bắc thuộc, đặc biệt là được những nhà văn quý tộc sử dụng.
Thể thơ này tuân thủ các luật lệ rất chặt chẽ. Tuy nhiên, trong quá trình sáng tác, đặc biệt là trong phong trào thơ mới tại Việt Nam từ năm 1925, các tác giả đã thông qua sự sáng tạo của mình để làm giảm bớt sự hàm rằng và nghiêm ngặt của luật bằng - trắc, để tâm hồn lãng mạn có thể tự do bay bổng trong từng câu thơ.
Thường thường, thể thơ thất ngôn bát cú có thể tuân theo 2 phương pháp phổ biến:
+ Thất ngôn bát cú theo Đường luật: Tuân thủ các quy tắc nghiêm ngặt về Luật, Niêm và Vần, thường có cấu trúc rõ ràng.
+ Thất ngôn bát cú theo Cổ phong: Không tuân theo các quy tắc rõ ràng, có thể sử dụng một vần (độc vận) hoặc nhiều vần (liên vận), nhưng vần vẫn phải phù hợp với quy tắc âm thanh, có nhịp bằng trắc xen kẽ nhau để dễ đọc.
+ Một cách khác là theo Hán luật. Các bài thơ thất ngôn bát cú viết bằng chữ Nôm thường được gọi là thơ Hán luật.
Với những bài thơ “Thất ngôn bát cú Đường luật” có cấu trúc rất chặt chẽ và mang những đặc điểm riêng. Nếu nhìn theo chiều dọc, có bố cục, niêm, đối và vần. Nếu nhìn theo chiều ngang, có luật (bằng, trắc).
Bố cục của bài thơ Thất ngôn bát cú chia thành bốn phần: đề, thực, luận, kết. (mỗi phần gồm hai câu)
Phần đề (2 câu đầu): Giới thiệu về đối tượng, vấn đề cần thảo luận. Cần làm cho độc giả cảm nhận được “tinh thần” của bài thơ và từ ngữ trong phần đề đã ẩn chứa các nội dung của phần còn lại. Ví dụ: Phần đề trong bài “Qua đèo ngang” đã mô tả một cách tường tận khung cảnh của đèo Ngang buổi xế tà (để chuẩn bị cho phần còn lại của bài thơ)
Phần thực (bao gồm câu 3, 4): Diễn đạt ý nghĩa từ hai câu thơ ở phần đề. Câu 3 và 4 cùng nhau mô tả ý nghĩa của phần đề như là việc miêu tả cảnh vật, sự việc hoặc giải thích chi tiết để chuẩn bị cho phần tiếp theo.
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Phần luận (câu 5, 6): Thực hiện việc phân tích, mở rộng ý nghĩa của câu thơ. Câu 5 và 6 cũng cùng nhau bình luận, phê phán. Thông thường, các ý tưởng được triển khai ở hai câu thực và có thể được phân chia sang hai câu luận nếu hai câu thực đã chứa đựng ý luận.
“Nhớ nhà đau lòng như đớn ruồi
Thương xóm mỏi mệt cái da da”
Ở đây tác giả vẫn tiếp tục mô tả cảnh vật nhưng sử dụng ngôn từ ẩn dụ, chuyển hướng ý nghĩa.
Phần kết (câu 7, 8) tổng kết, kết thúc vấn đề. Phần kết có chức năng làm kết bài thơ nhưng thường không hoàn toàn kết thúc mà đưa ra ý tưởng mới.
“Dừng bước lại đây trời non nước
Một tình yêu riêng ta với ta”
Qua các phần đề, thực, luận kết cấu trúc của bài thơ ngày càng rõ ràng theo một trình tự logic, và cảm xúc của tác giả cũng dần được thể hiện qua cấu trúc này.
Giữa phần thực và phần luận, đôi khi đường biên không rõ ràng và không thể tách biệt một cách rõ ràng. Vì vậy, khi phân tích, không nên chia cắt một cách cứng nhắc. Trong khi đó, giữa phần đề và phần kết lại có mối liên kết chặt chẽ từ mặt hình thức đến mặt nội dung: Cả hai câu đề và câu kết đều tuân thủ nguyên tắc về thanh bằng, thanh trắc và có sự tương đồng về cấu trúc âm nhạc.
“Đã đã lâu kể từ bác đến nhà
Thời trẻ đã xa chợ, cách xa nơi này.
………………………..
Trò tiếp khách, trầu không nối tiếp
Bác đến thăm, ta tựa đây mà ta”
Về mặt nội dung, câu đề giới thiệu chủ đề của bài thơ, câu kết tổng kết ý nghĩa và gợi lên một cảm xúc sâu sắc và gợi nhớ cho người đọc. Câu kết thường là điểm nhấn chủ đề của bài thơ.
“Dừng bước ở đây trước non sông
Một tình yêu riêng của ta với chính ta”
Tóm lại, cấu trúc của thơ Đường rất chặt chẽ từ phần đề, thực, luận, kết... đều được xây dựng trong một hệ thống logic và chặt chẽ. Khi phân tích văn bản, tôi thường tiến hành phân tích từng phần rồi tổng hợp lại ở cuối cùng.
Ví dụ: Khi giảng bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, tôi phân tích theo cấu trúc đề, thực, luận và kết, sau đó tổng hợp lại kiến thức cơ bản vì suốt bài thơ, tình cảm được thể hiện thông qua cảnh vật, và cảnh vật lại phản ánh tình cảm, từ đó giúp học sinh hiểu sâu hơn mà không bị lặp lại kiến thức.
Cấu trúc của bài thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nếu tiếng thứ hai của câu 1 có vần bằng thì gọi là thể bằng, có vần trắc thì gọi là thể trắc. Thể thơ này quy định nghiêm ngặt về luật bằng trắc, tạo nên một âm nhạc uyển chuyển, du dương như một bản tình ca.
Một số người đã bàn luận về luật lệ của bằng trắc trong từng tiếng ở mỗi câu thơ: tiếng nhất (1) – tam (3) – ngũ (5) luôn giống nhau, còn tiếng nhị (2) – tứ (4) – lục (6) thì có sự phân biệt. Nếu một bài thơ theo luật của Đường mà không tuân thủ điều này thì được gọi là “thất luật”.
Đêm mùa thu buồn chị Hằng ơi!
(……..B………….T…………B……….)
Trần vẻ em nay chán lắm rồi.
(……..T.……….B…………..T……….)
(Muốn làm thằng Tề, Tản Đà)
– Các chữ không có dấu và chỉ có dấu huyền: thuộc thanh bằng.
– Các chữ có dấu sắc, nặng, hỏi, ngã: thuộc thanh trắc.
– Các chữ ở vị trí thứ nhất, ba, năm có thể là bằng hoặc trắc, nhưng các chữ ở vị trí thứ hai, tư, sáu phải tuân theo đúng luật bằng trắc.
– Trong các câu thơ, các chữ ở vị trí thứ hai, tư, sáu phải có âm thanh đối lập.
Nếu chữ thứ hai là bằng, thì chữ thứ tư là trắc ® chữ thứ sáu là bằng. Nếu chữ thứ hai là trắc ® chữ thứ tư là bằng, chữ thứ sáu là trắc.
– Nói cách khác, trong mỗi câu thơ, chữ thứ hai và chữ thứ sáu phải cùng thanh, chữ thứ tư phải có âm thanh đối lập với chữ thứ hai và chữ thứ sáu.
Ví dụ, bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Bước qua Đèo Ngang bóng xế chiều
(T T B B T T B)
Cỏ cây rậm rạp lá rợp hoa
(T B B T T B B)
– Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường luật là ý nghĩa của hai câu thứ ba và thứ tư phải 'đối' nhau, và hai câu thứ năm và thứ sáu cũng 'đối' nhau. 'Đối' thường được hiểu là sự tương phản (bao gồm cả từ đơn, từ ghép, từ láy) bao gồm cả sự tương đương trong cách sử dụng các từ ngữ.
+ 'Đối chữ': danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ. 'Đối cảnh': trên đối với dưới, cảnh động đối với cảnh tĩnh… Nếu một bài thơ Đường luật mà các câu thứ ba, thứ tư không đối nhau, các câu thứ năm, thứ sáu không đối nhau thì bị gọi là 'thất đối'.
Ví dụ: hai câu thứ ba và thứ tư trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
“Rủ rê dưới núi sương vài bó
Lang thang bên sông chiều mấy nhà”
“Rủ rê” so với “lang thang” (hành động và tình trạng - thực ra hai câu này chưa hoàn toàn đối lập), “dưới núi” so với “bên sông” (vị trí địa lý), nhưng nếu kết hợp hình ảnh của hai câu: “rủ rê dưới núi” và “lang thang bên sông”, vì một câu miêu tả cảnh động, một câu miêu tả cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể được chấp nhận. Điều đáng lưu ý là cách sử dụng từ “rủ rê” chỉ hành động của câu trên và “lang thang” chỉ tình trạng của câu dưới. Hai phần tiếp theo: “sương vài bó” so với “chiều mấy nhà” (đối lập về số lượng và tình trạng). Sự đối lập của hai phần cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin tham khảo thêm về thơ đối hoặc câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ.
Các câu trong một bài thơ Đường luật được xem là “đồng thể với nhau” (đồng thể = giữ nguyên, ở đây có nghĩa là giữ nguyên về luật). Hai câu thơ đồng thể với nhau khi chữ thứ hai trong cả hai câu tuân theo cùng một luật, hoặc cả hai là bằng, hoặc cùng là trắc, dẫn đến bằng đồng thể với bằng, trắc đồng thể với trắc. Trong những câu theo nguyên tắc này cần phải giữ nguyên, nếu tác giả nhầm lẫn và không giữ nguyên thì bài thơ đó bị gọi là “thất đồng thể”.
Nguyên tắc đồng thể trong một bài thơ Đường luật chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:
Câu thứ nhất niêm với câu thứ tám.
Câu thứ hai niêm với câu thứ ba.
Câu thứ tư niêm với câu thứ năm.
Câu thứ sáu niêm với câu thứ bảy.
Vần là các từ có cách phát âm giống hoặc gần giống nhau, được sử dụng để tạo ra âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ theo cấu trúc chuẩn của thể loại thất ngôn bát cú, vần được sử dụng ở cuối các câu thứ nhất, hai, bốn, sáu và tám. Các câu này được gọi là “câu vần với nhau”. Nếu một bài thơ thất ngôn bát cú mà chữ cuối cùng của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi là “thất vần”.
Những từ có vần giống nhau hoàn toàn được gọi là “vần chính”, những từ có vần gần giống nhau được gọi là “vần phụ”. Hầu hết thơ thất ngôn bát cú sử dụng vần thanh bằng, nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ.
Ví dụ: hai câu thứ nhất và thứ hai trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
“Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa'
Hai từ “tà” và “hoa” được xem như là vần với nhau, nhưng ở đây được coi là “vần thông” vì chúng chỉ phát âm gần giống nhau.
Ngôn ngữ trong thơ Đường luật có tính hàm súc, đặc biệt là ở những bài thơ của tác giả Trung Quốc, gây ra khó khăn cho học sinh trong việc hiểu văn bản. Trong chương trình sách giáo khoa cũ, học sinh được học phần “Mở rộng vốn từ”, nhưng hiện nay phần này đã không còn trong sách giáo khoa nữa. Điều này khiến học sinh hiểu rõ từ ngữ trong bài thơ trở nên khó khăn hơn, và họ gặp khó khăn trong việc hiểu rõ ý nghĩa mà nhà thơ muốn truyền đạt. Vì vậy, trước khi tiếp cận một bài thơ Đường luật, tôi thường yêu cầu học sinh tự tra từ ngữ trong phần cuối sách ở nhà, để họ dễ dàng tiếp nhận tác phẩm khi đến lớp.
Một trong những đặc điểm của thơ Đường luật là tính hàm súc, hay còn gọi là ý tại ngôn ngoại. Điều này chính là điểm đặc biệt của một bài thơ có giá trị. Với 56 tiếng của bài thơ Thất ngôn bát cú và 28 câu của bài tứ tuyệt, bài thơ phải thể hiện được tối đa ý đồ thầm kín của tác giả.
Ngoài ra, một yếu tố quan trọng khác trong ngôn ngữ được những nhà thơ xưa coi trọng là yếu tố hoạ, nhạc, được gọi là “Thi trung hữu hoạ” hoặc “Thi trung hữu nhạc”. Để làm nổi bật bức tranh trong bài thơ, người ta sử dụng lối văn hình ảnh, sử dụng từ ngữ gợi tả hình tượng màu sắc, đường nét để hình thành hình ảnh trước mắt người đọc.
Trong thơ Đường, đặc biệt là thơ Đường luật thường không sử dụng hư từ mà chỉ sử dụng các từ thực tế gắn kết với nhau theo cấu trúc nội tại. Vì vậy, khi phân tích, tôi tập trung vào việc khai thác từng tiếng, từng từ, từng hình ảnh để giúp học sinh cảm nhận được tấm lòng của thi nhân, những tâm sự thầm kín của họ.
Điều này là một trong những nét đặc trưng của thơ Đường luật. Đó chính là tính chất tập trung, súc tích được phát triển từ một cách suy nghĩ nghệ thuật độc đáo, một phong cách sáng tạo đặc biệt của các nhà thơ thời xưa.
“Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.
Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Trong đó:
+ Hai câu đầu tiên (1 và 2) là hai câu Đề được sử dụng để: Mở Đề và Vào Đề (khởi đầu bài, giới thiệu…)
+ Hai câu kế tiếp (3 và 4) là hai câu Thực sử dụng để: (mô tả), yêu cầu của 2 câu này là phải đối nhau cả về âm điệu (bằng đối trắc hoặc ngược lại) và về nghĩa (Lom khom – Lác Đác, Dưới núi – Bên sông, Tiều vài chú – rợ mấy nhà)
Hai câu 5 và 6 là hai câu Luận (suy luận), yêu cầu cũng phải đối nhau cả về âm điệu và nghĩa, tương tự như hai câu Thực ở trên
+ Hai câu cuối cùng (7 và 8) là hai câu Kết (kết luận), không yêu cầu đối nhau.
+ Phương thức chia điệu: 2/2/3 hoặc 4/3, 3/4.
+ Phương pháp tạo vần: Các tiếng cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8 phải hòa vần với nhau.
+ Thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật ngắn gọn, súc tích, giàu nhạc điệu.
+ Phong cách thi pháp rất nghiêm túc, việc tuân thủ số lượng câu và chữ là bắt buộc và không được thay đổi, điều này khiến việc sáng tác trở nên khó khăn.
+ Có sự kết hợp hài hoà giữa âm nhạc cổ điển trầm bổng và nhịp nhàng, nội dung của thơ rất đa dạng và phong phú.
+ Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt tuân thủ các nguyên tắc thi pháp nghiêm ngặt và đa dạng, nhưng không dễ dàng vì không thể thay đổi số lượng câu và chữ.
Mặc dù việc sáng tạo thơ theo thể thức thất ngôn bát cú Đường luật đòi hỏi sự nghiêm túc và chặt chẽ, nhưng nhiều nhà thơ Việt Nam như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,… đã dũng cảm “bóp méo” quy tắc để tạo ra những tác phẩm có giá trị và trong quá trình này, họ đã làm cho thể loại thơ này trở nên phong phú và đa dạng hơn về mặt nghệ thuật và văn hóa dân tộc.