I - Tìm hiểu chung
1. Tú Xương là một người rất thất bại trong thi cử. Ông thi nhiều lần nhưng luôn trượt, chỉ đỗ được tú tài. Ông sống trong thời kỳ khó khăn, khi mà đạo đức truyền thống đang suy tàn. Những bi kịch cá nhân cùng với những khó khăn của cuộc sống thành thị đã biến Tú Xương trở thành một nhà thơ biểu tượng của văn học Việt Nam vào đầu thế kỷ XX.
2.
- Vịnh khoa thi Hương là một bài thơ trữ tình châm biếm. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh sắc nét để tái hiện cảnh trường thi, thể hiện sự đau đớn, cay đắng của một trí thức nhìn thấy sự suy tàn của nền học vấn Hán học lâu đời cùng với văn hoá phương Đông.
- Bài thơ thuộc thể thất ngôn bát cú Đường luật.
- Hai câu đề: giới thiệu về kỳ thi đặc biệt hai trường “thi lẫn”.
- Hai câu thực, luận: miêu tả cảnh trường thi với tất cả các thành phần chính, từ sĩ tử, quan trường đến khách mời. Tất cả đều tạo ra một bức tranh hỗn loạn, hỗn độn.
- Hai câu kết: tâm sự đầy chua xót của nhà thơ trước hiện thực của kỳ thi Hương.
3. Đọc chậm, giọng châm biếm, đầy chua xót.
II - Kiến thức cơ bản
Thực dân Pháp tạm thời chiếm đóng Việt Nam, văn hóa phương Tây lan rộng lấn át văn hóa truyền thống. Hán học suy vong, các nhà nho từ bỏ bút lông để sử dụng bút chì kiếm sống. Cuộc thi cử trở thành trò đùa, cảnh tượng kỳ thi vô cùng bi thảm. Nguyễn Khuyến và Tú Xương, cả hai là những nhà nho tự trọng, họ đều đau lòng và châm biếm trong loạt bài thơ của mình - trong đó có Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương.
Bài thơ sử dụng hình thức thất ngôn bát cú, nhưng Tú Xương đã phổ biến. Với ngôn từ và hình ảnh gần gũi, sâu sắc, tác giả đã biến thể thơ luật Đường nghiêm trang thành một bài thơ châm biếm, phản ánh âm thanh của dân gian cay đắng. Sự tương ứng giữa thể loại và ngôn ngữ thơ phản ánh mục đích trọng đại (tuyển người tài phụng sự nước) và hình thức hỗn loạn, lộn xộn của kỳ thi Hương. Bài thơ thể hiện sự đau xót của nhà thơ trước thực tế suy vong của Hán học. Nỗi đau ấy đã được Nguyễn Khuyến mô tả khi viết:
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân, con rồng giương cổ.
(Hội Tây)
Tú Xương thuộc dòng nhà nho, hoạt động trong môi trường khoa cử cuối cùng của xã hội phong kiến Việt Nam. Vào cuối thế kỉ XIX, việc tổ chức các cuộc thi Hán học chỉ còn là hình thức. Bài thơ giới thiệu về kỳ thi năm Đinh Dậu như sau:
Chính phủ ba năm mở một khoa,
Trường Nam và Hà cùng tổ chức.
Cách giới thiệu tự nhiên, kỳ thi diễn ra đúng thời gian quy định, ba năm một lần. Tuy nhiên, có một điểm không bình thường: Trường Nam thi lẫn với trường Hà. Tác giả không sử dụng thi chung hay cách diễn đạt trang trọng hơn, mà lại chọn từ ngữ “thi lẫn”. Cách diễn đạt này đã phản ánh tính không nghiêm túc của kỳ thi. Khoa thi Hương năm 1897 được miêu tả với sự trào phúng rõ ràng. Bức tranh về trường thi hiện lên với cảnh tượng thật rối ren, hỗn loạn:
Sĩ tử với lọ treo vai,
Quan to miệng thét la,
Trời cao sứ giả cầm lọng đến,
Áo dài quét sạch đất, váy dài ra.
Bốn câu thơ mô tả cảnh trường thi đều sử dụng cấu trúc đảo ngữ thành phần câu. Hai câu thực, tác giả đảo ngữ thành phần phụ chỉ đặc điểm lên trước. Hai từ lôi thôi, ậm oẹ làm nổi bật điểm đặc biệt nhất của cảnh thi, thật hài hước. Sĩ tử là nhân vật chính của kỳ thi. Trong thời kỳ thịnh vượng của Nho học, các sĩ tử thường có người hầu theo. Vì vậy, họ không phải “đeo lọ” như sĩ tử trong cảnh thi này. Những sĩ tử đến thi trông thật nhếch nhác và tội nghiệp. Trong khi đó, “quan trường”, những người tổ chức và giám sát kỳ thi, cũng thảm hại không kém. Sự lôi thôi so với ậm oẹ là rất cân xứng. Lẽ ra họ phải oai phong, dáng vẻ cao quý như các quan triều đình. Tú Xương đã chọn từ ngữ rất kỹ. Chỉ cần hai từ đó đã đủ để mô tả bộ mặt nhếch nhác đến thảm hại của một số kỳ thi Hán học cuối cùng này.
Không có sự trang trọng, nghiêm túc của một kỳ thi tuyển sinh nhân tài. Cảnh thi ấy là biểu hiện rõ nhất của sự suy tàn không thể cứu vãn được của nền Nho học và cả nền văn hoá truyền thống phương Đông.
Dù cảnh trường thi rối ren, nhếch nhác nhưng hình ảnh các vị khách mời lại khác biệt. Bốn câu thơ của tác giả sử dụng triệt để các hình thức đối lập trong thơ. Trong cặp câu thực: sĩ tử >< quan trường; trong cặp câu luận: lọng - quan sứ >< váy - mụ đầm là sự đối lập trong mối quan hệ tương tự. Đối ngẫu giữa hai cặp câu thực và hai cặp câu luận: sĩ tử, quan trường (nhân vật chính của kỳ thi) >< quan sứ, mụ đầm (khách mời) là sự đối lập trong mối quan hệ tương phản. Bên nhân vật chính thảm hại, nhếch nhác nhưng bên nhân vật phụ, các quan thầy lại long trọng, còn đủ một phần bất khuất. Sự tương phản này làm nổi bật nỗi nhục nhã ê chề của các nhà học Nho. Có ý kiến cho rằng: “Đây là một nỗi nhục lớn đối với người trí thức Việt Nam vì tại chốn lựa chọn nhân tài cho đất nước, bóng dáng của mấy kẻ thực dân cướp nước đã bao trùm lên tất cả”. Lọng của quan sứ và váy của mụ đầm đã bao phủ cả trường thi. Là một nhà học có tài, có phẩm hạnh và có ý thức dân tộc, hơn ai hết, Tú Xương cảm nhận rất sâu nỗi nhục nhã ê chề ấy. Các nhà học Việt Nam cả đời dùi mài kiến thức, để đến được kỳ thi này, có bao nhiêu người vợ như bà Tú đã phải lao động kiếm sống, phải cần cù cả cuộc đời. Chỉ với một vài hình ảnh mô tả như thế, Tú Xương đã tái hiện cảnh thi Hương Đinh Dậu, qua đó tổng quan hóa bộ mặt xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX.
Kết thúc bài thơ là lời tâm sự của ông Tú. Câu thơ mang phong cách cay đắng, xót xa và cầu mong:
Tài năng của miền Bắc, ai sẽ là người?
Nhìn về quê hương nhưng lòng nhớ nhà.
Là con người biết trân trọng danh dự, với trái tim yêu nước, ông Tú mong muốn thức tỉnh ý thức dân tộc trong con người Việt Nam, đặc biệt là những người tài, những người có trách nhiệm và có khả năng cứu nước, cứu đời.
Giọng điệu chính của bài thơ là trào phúng, nhưng ở hai câu kết, tác giả đã chuyển sang giọng điệu trữ tình. Vịnh khoa thi Hương là một bài thơ trữ tình – trào phúng tiêu biểu cho phong cách thơ trào phúng của Tú Xương: chua cay, sâu lắng và đầy suy tư. Bài thơ thể hiện tấm lòng của ông đối với dân tộc.
III - Mối liên hệ
Từ thời vua Minh Mạng (1820 – 1840) trở đi, cả nước có 7 trường thi. Tính từ phía trong ra, từ Nam ra Bắc, 7 trường thi đó là:
1. Trường thi Gia Định (Sài Gòn)
2. Trường thi Bình Định
3. Trường thi Thừa Thiên
4. Trường thi Nghệ An
5. Trường thi Thanh Hoá
6. Trường thi Nam Định
7. Trường thi Hà Nội.
Mỗi trường thi coi như một khu vực chiêu sinh chiêu hiền, bao gồm nhiều tỉnh. Ví dụ trường Hà Nội thì chiêu sinh những sĩ tử gồm trong tám tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Sơn Tây, Ninh Bình và Hà Nội. Ví dụ trường Nam Định thì gồm học trò bốn tỉnh Quảng Yên, Hải Dương, Hưng Yên và Nam Định.
Những lúc bình thường thì địa điểm tuyển mộ nhân tài của nhà vua xưa là như vậy, và học trò của tỉnh nào thì thi ở khu vực trường thi đó. Nhưng từ khi Pháp đánh Hà Nội, đánh Nam Định, và nói chung là mưu chiếm Bắc kì Trung kì, thì một số trường thi cũng “trải qua một cuộc bể dâu”.
Ví dụ như chuyện mất trường thi Hà Nội. Ví dụ như chuyện sĩ tử bị treo giò (bút), học trò Bắc kì mất thi năm Nhâm Ngọ 1882 (cứ những năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu thì mở khoa thi ; nhưng năm Ngọ 1882 đó, Tây đánh thành Hà Nội lần thứ hai). Tất cả sĩ tử thuộc hai trường thuộc Hà Nội, Nam Định nghĩa là học trò mười mấy tỉnh Bắc kì, phải chờ mất thêm hơn hai năm nữa mới được triều đình Huế cho vào Thanh Hoá phụ thi vào trường Thanh Hoá. Lí do của sự thi ghép đó? là vì Hà Nội mất trường thi, thế còn trường thi Nam Định thì sao? Thì lính Tây cũng vừa đốt cháy rụi cả trường thi Nam Định vào năm 1883 đó. Trường thi Nam Định cũng là một trường đặc biệt. Lúc thi, vì cháy trường thi, mà sĩ tử trường Nam phải lưu vong mãi vào trong Thanh Hoá mà ghé ống quyển thi nhờ. Đến lúc Nam Định đã dựng lại được trường thi, thì từ đó lại được nhận cả học trò Hà Nội dồn về. Cũng như mấy khoa trước, khoa Đinh Dậu đó (1897), anh Hà Nội bị Tây đuổi trường, lại vẫn phải chạy xuống Nam Định, chuyển cái không khí kinh kì xuống vùng quê hương Tú Xương, “trường Nam thi lẫn với trường Hà”.