Bài Tương tư nằm trong một thi tứ bao trùm Thơ mới: tình yêu nam nữ - một hình thái tình yêu hiện đại đa dạng của văn học lãng mạn giai đoạn 1930 — 1945... từ tình yêu mãnh liệt, tình yêu thoáng qua; tình yêu gần gũi, tình yêu xa xôi..., tình yêu trong khoảnh khắc, tình yêu trong mùa thu.
Nhân vật lãng mạn trong bài thơ Tương tư đã không ngủ được chín đêm mười ngày suốt mấy đêm, mong chờ, nhớ nhung người yêu thương từng phút từng giây, thậm chí từng tháng qua tháng: Lá xanh chuyển sang màu vàng... Theo quan điểm đạo đức tôn trọng của dân tộc, đặc biệt là triết gia Tống Nho, thì kẻ nam tính như vậy là không tốt... Tuy nhiên, sức hấp dẫn của thơ của Nguyễn Bính trong bài Tương tư chủ yếu không phải là do sự thật về tình cảm thực tế thể hiện sự khao khát, niềm vui của người ta ngày nay thông qua việc điều chỉnh phù hợp với quy luật của tình yêu nam nữ, để bảo vệ cho đạo lý nhân văn (không ít nhà thơ lãng mạn đương thời thể hiện tình yêu một cách chân thành hơn (Ao ước - Tế Hanh), tinh tế hơn (Ngậm ngùi - Huy Cận) hoặc tận trái tim hơn: Chúng tôi đi trong thơ một cách yên bình - Đắm chìm trong sự êm đềm không đọng lại - Trăng sáng, trăng cao, trăng rộng lớn quá - Hai người nhưng không va chạm (Trăng - Xuân Diệu); mà sức hấp dẫn chủ yếu đến từ những xúc cảm sâu lắng của tâm hồn thi sĩ (thể hiện qua cấu trúc cùng như ngôn từ - ngữ điệu) hòa quyện một cách tự nhiên với bản sắc dân tộc.
Chúng ta đều hiểu: Bản tính của một dân tộc phản ánh trong các hình thức dân gian. Trong dân gian Việt Nam, có một lĩnh vực phát triển đặc biệt: thơ dân gian không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng, ca dao dân ca là kho tàng văn hóa mang trong mình tri thức, tinh thần, tâm linh Việt... và trong kho tàng tinh thần đó, có rất nhiều bài thơ tình yêu đặc sắc không thua kém bất kỳ bài ca tình nào trên thế giới. Nhà thơ Nguyễn Bính chính là một chú bướm (Con bướm vàng từ cổ tích Thám hoa - Truyện cổ tích) đã bay vào và khám phá trên một lãnh thổ văn hóa dân gian đặc biệt của dân tộc: ca dao dân ca, và đã hấp thụ một lượng lớn hương thơm của nó... Trong Thơ mới, không chỉ riêng Nguyễn Bính, mà còn nhiều nhà thơ khác cũng đã tụ tập xung quanh vùng văn hóa gốc gác của dân tộc này - như nhà văn Thi nhân Việt Nam từng nhận xét: Chưa bao giờ như bây giờ họ cảm thấy cần phải trở lại quá khứ để đào sâu vào những gì vĩnh cửu để đảm bảo cho ngày mai. Tình trạng này hoàn toàn phản ánh một quy luật hình thành văn học lãng mạn trên thế giới; ví dụ, không ít nhà văn lãng mạn châu Âu thế kỷ XIX cũng đã quay trở lại với văn hóa dân gian, quan tâm đến việc thu thập các tác phẩm dân gian theo quan niệm: cần có sự kết hợp hài hòa giữa quá khứ và hiện tại (Mickiewicz) vì có lúc: chỉ thông qua ca dao mới thấy được sự chân thành của thơ.
Một trong những đặc điểm đặc trưng của tính cách Việt là ý thức về sự điều độ. Ý thức này đã ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực văn hóa dân gian Việt: từ kiến trúc, các công trình không quá lớn, đến sân khấu tuồng, biểu diễn mạnh mẽ nhưng không quá ồn ào, chèo khi buồn bã cũng phải có sự du dương để xua tan không khí u buồn, cũng như trong tín ngưỡng, lễ hội, nghi lễ trang trọng nhưng không khắt khe, cùng với cách ứng xử, không thích sự quá đà... Ý thức về sự điều độ của tính cách Việt phần lớn là do các nguyên tắc lịch sử, đạo lý truyền thống quyết định... Đồng hành cùng với hệ thống văn hóa đó, tình yêu nam nữ trong ca dao dân ca có sự đam mê nhưng không quá mãnh liệt, không gây hậu quả nặng nề - sự tuyệt vọng đến mức tự diệt vì tình không phổ biến trong thơ ca dân gian. Thực tế, người dân thường phải đối mặt với nhiều trách nhiệm, ví dụ như với gia đình, khi họ đang yêu đương. Hãy nghe lời thôn nữ xưa nhắc nhở với sự đáng yêu:
Anh ơi, thả áo em ra
Để em đi chợ trước khi trời trưa
Trời trưa rau sẽ héo tàn
Em phải lo cho mẹ, phải lo cho mình.
Chúng ta tin rằng, dù cô gái đó ở trong tình thế:
Khăn thắm nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thắm nhớ ai
Khăn gập trên vai
Đèn thắm nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mà mắt không khô.
Dù đi xa, cô ấy cũng không dễ dàng bị bệnh hoặc đánh mất sức khỏe, vì không ai sẽ thay thế cô chăm sóc mẹ, chăm sóc em? Vì vậy, nỗi buồn tương tư, tình cảm tuyệt vọng... trong ca dao dân ca xưa chỉ khiến người ta nuối tiếc:
Thương tiếc công lao anh đã đổ vào việc xây dựng bờ bể.
Để ai đó vứt bỏ, không quan tâm, không để ý đến,
Đêm qua đã có sự thay đổi, những thứ đã chuyển động như thế nào,
Thương tiếc công sức mà đã dành cho mối quan hệ, thương tiếc những lời hứa đã trao nhau...
Hoặc dẫn nàng đến tình trạng mơ mộng điên dại:
Mỗi ngày, em đều trông chờ
Trông non biếc bao vững chắc, trông dòng sông dài lênh đênh...
Ngoài ra còn có điều này:
Nhớ về ai, em thầm khóc
Hai hàng nước mắt chảy ròng ròng như mưa...,
Và trạng thái bình thường của họ là:
Đêm qua ra bên bờ ao
Trông cá dưới nước, trông sao trên trời mờ
Buồn nhìn thấy con nhện dệt tơ...
Buồn nhớ quá, nhưng... vẫn còn rất nhiều công việc phải làm. Tình yêu không phải là một phương án cứu cánh duy nhất!
Nét quan trọng nhất của bản tính dân tộc trong bài thơ Tương tư là xu hướng tổng kết súc tích của cấu trúc thơ, mang ý nghĩa về sự chín chắn: chín nhớ mười mong kéo dài qua tháng ngày, dù không có hi vọng nào, vẫn tiếp tục đợi chờ: Khi nào bến mới gặp thuyền, với hy vọng xa vời: Ở thôn Đoài, nhớ trầu không chỗ nào?... và chỉ đến đó thôi, không phải là phản ứng quyết liệt: Sau này, anh chết, anh chết uất ức - linh hồn anh không thể cô đơn quan sát linh hồn em... như lãng mạn như trong bài thơ Ao ước của Tế Hanh - cái ý tứ cực đoan có lẽ chỉ phù hợp với tâm lý của một số độc giả thành thị - Phong cách cấu trúc thơ tình yêu với các mức độ cảm xúc phù hợp với bản tính dân tộc như vậy đã hiện diện trong hầu hết các bài thơ của Nguyễn Bính. Những nhân vật tình cảm trong thơ Nguyễn Bính (thực tế hoặc tưởng tượng, khách quan hoặc chủ quan) dù có lòng muốn yêu đơn phương, cảm thấy tuyệt vọng... đều ứng xử có mức độ: một chàng trai bị người yêu phụ bạc, chỉ than thở: Tình tôi mở cánh mùa thu - Tình em yên lặng như coocnh gió (Đêm cuối cùng), một cô gái bị lỗi hẹn cũng kiên nhẫn chờ đợi: Anh ơi! Mùa xuân đã qua, khi nào mới gặp lại anh (Mùa xuân), một người lái thuyền thất tình muốn bỏ việc, nhưng sau đó lại từ bỏ: Lang thang anh đi khắp nơi bán thuyền - Có người trả tiền gắn kết trở lại (Anh lái đò), một chàng trai thất tình không trách móc nhưng cũng không nói nặng nề: Em đã sang ngang với người khác - Anh còn trồng cải nữa không? - Đêm qua em mơ thấy hai con bướm - Tình yêu chúng ta chung ở trên trời (Hết bướm vàng), đau đớn hơn: người yêu khốn khổ, nhưng nỗi đau ấy đã hòa quyện vào giấc mơ: Đêm qua nàng đã ra đi - Tôi khóc cay đắng, yêu nàng hết lòng - Linh hồn nàng còn ở trần gian - Vào cơ thể của một chú bướm trắng (Người hàng xóm)... và trước sự thờ ơ của cô gái hái mơ, khách đa tình chỉ trách móc mơ màng:
Cô ơi, cô gái ơi
Chẳng trả lời nhau một câu
Lặng lẽ trôi đi, rồi biến mất
Rừng mơ khép kín, lá mơ rơi...
Nét đặc trưng của văn hóa dân gian, bản sắc dân tộc đó đã khiến những bài thơ tình của Nguyễn Bính, trước và sau năm 1945, dễ dàng thu hút sự đồng cảm và lòng yêu mến của một số độc giả đông đảo (kể cả trong thành thị và nông thôn...) mà chưa có thi sĩ nào khác có thể đạt được.
Đại đa số độc giả đều tìm đến thơ tình của Nguyễn Bính vì những bài thơ mang đậm tình cảm gần gũi với bản tính, tâm hồn của người Việt đã được thể hiện thông qua một ngôn từ thân quen: giọng điệu của ca dao dân ca. Tình yêu Tương tư, đó là thể loại thơ lục bát từ xa xưa mang đậm nét ngọt ngào, giàu nhạc điệu, vần vũ phong phú, lối kể chuyện trôi chảy (kể chín quên mười nhớ), cách biểu đạt ý niệm thông qua hình ảnh cụ thể (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ ngữ mơ hồ tạo cảm giác lan tỏa mênh mông (Biết cho ai, hỏi ai người biết cho...) Sự hiện diện rõ nét của giọng điệu ca dao dân ca trong thơ của Nguyễn Bính có thể thấy rõ qua các tác phẩm như: Chân quê, Đêm cuối cùng, Chờ nhau, Giấc mơ anh lái đò, Người hàng xóm và Lỡ bước sang ngang. Những bài thơ đã được làm dân dã đến mức có thể được sử dụng để ru ngủ em bé. Đông đảo độc giả đã đến với thơ tình của Nguyễn Bính cũng bởi những dòng thơ thuần tính cách của người Việt đã đánh thức những kỷ niệm êm đềm về quê hương yêu dấu... Trong bài Tương tư, chúng ta có thể nhìn thấy: làng quê, dòng sông, bến thuyền, ngõ nhà, giàn tre, hàng cây cau... và trong những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng có nhiều hình ảnh gần gũi, như những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên những cánh đồng hoa cải vàng, vườn cam, vườn bưởi thơm phức hương thơm, ven đê là ruộng dâu, bãi đất, vườn trà, bên bờ ao, bên cạnh giếng nước, giữa làn gió nồng nàn và dưới bầu trời cao xanh ngắt như ban ngày...
Hương sắc của quê hương trong thơ của Nguyễn Bính, sáng tác trước năm 1945, đã làm cho nhiều độc giả yêu thơ mê mải. Hiện tượng này khiến chúng ta nhớ lại những lời tiên tri sâu xa của Thi nhân Việt Nam cách đây 50 năm: Nếu những nhà thơ của chúng ta đủ lòng trắc ẩn để kế thừa di sản thơ cũ, nếu họ biết tôn trọng thơ xưa với tâm hồn trẻ trung, họ sẽ phát triển những giá trị vĩnh cửu hơn, sâu sắc hơn và một cách đơn giản hơn trong tâm hồn dân tộc. Đặc biệt là ca dao sẽ đưa họ trở về với dân làng, tức là với tất cả mọi người trong nước. Trong nguồn gốc phong phú và mạnh mẽ đó, họ sẽ khám phá ra những giai điệu thơ không chỉ dành riêng cho chúng ta, một nhóm người có kiến thức mà còn làm xúc động tất cả mọi người Việt Nam.
Mytour