Pháp Lam (hay đồ đồng tráng men) là các sản phẩm được chế tác từ đồng hoặc hợp kim đồng, với lớp men trang trí trên bề mặt để nâng cao giá trị thẩm mỹ. Bài viết này tập trung vào Pháp Lam Huế hay đồ đồng tráng men thời Nguyễn.
Lịch sử tên gọi
Hiện nay, vấn đề này vẫn đang được các nhà nghiên cứu ở Huế tiếp tục thảo luận.
- Theo một số bài viết của cố họa sĩ Phạm Đăng Trí, các nhà sưu tập giải thích rằng: 'pháp lam' có nguồn gốc từ chữ 'pha lang' mà người Trung Hoa dùng để chỉ loại đồ tráng men do các nhà truyền giáo phương Tây giới thiệu và truyền vào Việt Nam. Chữ 'pháp lam' phải được viết thành 'pha lang' (France) để tránh phạm húy tên chúa Nguyễn Phúc Lan...
- Có ý kiến cho rằng 'Pháp lam' chỉ loại đồ men của Pháp, trong đó chữ 'Pháp' được người Trung Hoa dùng để chỉ người phương Tây chứ không chỉ riêng người Pháp...; chữ 'lam' ngoài việc chỉ màu xanh lam, cây chàm... còn được giải thích trong Từ điển Hán Việt Thiều Chữu là làm gương theo kiểu Pháp... Theo từ điển, Cảnh Thái lam là tên gọi của sản phẩm mỹ nghệ dùng men tráng lên đồng hoặc thiếc... niên hiệu Cảnh Thái đời Minh Đại Tông, sản phẩm được chế tạo tại Bắc Kinh và gọi là: Cảnh Thái lam...
- Ý kiến khác cho rằng: '... châu Âu trang trí cửa sổ bằng khung ghép hình và những vật gia dụng tráng men trắng có điểm xuyết các hạt màu xanh lục... Nghệ nhân Huế dưới triều Nguyễn cũng chế tác mặt hàng có nhiều mảng màu trên men, cốt đồng và cho rằng nó có nguồn gốc từ 'pháp lang sa' (Française) và vì kiêng húy Thượng Vương Nguyễn Phúc Lan (1635-1648) nên gọi là 'Pháp lam'. Việc thay chữ 'lang' thành 'lam' là vì chữ Lang (瑯) phát âm gần giống với chữ Lan (灡) trong tên chúa Nguyễn Phước Lan, đặc biệt là phát âm theo lối Huế. Do vậy, cần phải đọc trại đi để tránh phạm húy...
- Tạm hiểu rằng: Sản phẩm này có tính địa phương cao (Huế) và chỉ xuất hiện từ thời Nguyễn. Chúng có liên quan đến một di tích trong quần thể Di sản văn hóa thế giới (Cố đô Huế), đó là Pháp lam tượng cục. Mặc dù không còn rõ nét trên thực địa nhưng tên gọi của cơ quan này vẫn còn được ghi trong sử liệu. Thời xưa, nghệ nhân Huế đã sáng tạo trong quy trình chế tác đồ pháp lam. Đây chính là giá trị văn hóa phi vật thể của loại đồ đặc biệt này và Luật di sản văn hóa yêu cầu bảo vệ. Do đó, không nên đổi tên gọi 'Pháp lam' thành 'đồ đồng tráng men', cũng không nên viết chung chung 'Pháp lam' mà nên ghi rõ 'Pháp lam Huế' hoặc 'đồ đồng tráng men thời Nguyễn' để tránh nhầm lẫn với Pháp lang Trung Hoa.
Nguồn gốc và xuất xứ
Pháp lam Huế đã tiếp nhận kỹ thuật Họa pháp lang từ Quảng Đông, Trung Quốc. Quảng Đông là nơi đầu tiên đưa công nghệ chế tác Họa pháp lang (Émaux hay Painted enamel) vào Trung Hoa. Khác với kỹ thuật Kháp ti pháp lang (Cloisonné) được đưa từ Byzantine qua Tây Vực nhờ quân Mông Cổ, kỹ thuật Họa pháp lang có nguồn gốc từ vùng Limoges ở Pháp và Battersea ở Anh, du nhập vào Trung Hoa qua các tu sĩ dòng Tên vào cuối thế kỷ 17.
Kỹ thuật này được đưa vào Việt Nam vào thời vua Minh Mạng (năm 1827). Lúc đó, một nhóm thợ vẽ ở Nội Tạo, cơ quan chuyên vẽ và trang trí trong cung Nguyễn, đã học được nghề làm pháp lam từ Trung Hoa.
Phân loại
Dựa trên phương pháp chế tạo cốt và kỹ thuật thể hiện men màu cũng như họa tiết, có thể phân loại pháp lang thành bốn loại:
- Kháp ti pháp lang (掐丝珐琅): Pháp lang được chế tác với các ngăn chia ô hộc. Xem Cloisonné
- Họa pháp lang (画珐琅): Pháp lang được tạo ra bằng cách vẽ trực tiếp trên nền men, tương tự như các tác phẩm hội họa (Painted enamel), kiểu này được phát minh tại thị trấn Limoges ở Pháp vào thế kỷ 15.
- Tạm thai pháp lang (錾胎珐琅): Pháp lang có cốt được chạm trổ (champlevé).
- Thấu minh pháp lang (透明珐琅): Pháp lang có lớp men trong suốt phủ bên ngoài.
Pháp lam Huế thuộc loại Họa pháp lang và một số vật dụng khác mang kiểu dáng của Kháp ti pháp lang được nhập khẩu từ Trung Hoa. Dựa vào các hiện vật pháp lam trang trí trong các cung điện triều Nguyễn cũng như các hiện vật lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế và trong dân gian, có thể nhận thấy pháp lam được sử dụng chủ yếu cho các mục đích sau:
- Pháp lam dùng để trang trí ngoại thất các cung điện triều Nguyễn: Thường xuất hiện trên các bờ nóc, bờ quyết, cổ diềm tại các cung điện như điện Sùng Ân (lăng Minh Mạng); điện Biểu Đức (lăng Thiệu Trị); điện Hòa Khiêm (lăng Tự Đức); điện Thái Hòa (Đại Nội) và các nghi môn ở các lăng cũng như khu vực Đại Nội.
- Pháp lam dùng để trang trí nội thất: Bao gồm các hoành phi, câu đối, bình, choé...
- Pháp lam gia dụng và pháp lam tế tự: Nhóm hiện vật này gồm các đồ dùng trong việc tế tự như lư hương, quả bồng, chân đế quả bồng, cơi trầu... và các đồ gia dụng như khay trà, tô, bát, tìm đựng thức ăn.
Pháp lam qua các thời kỳ
Pháp lam không chỉ là một hình thức mỹ thuật đặc sắc mà còn là một loại vật liệu đặc biệt, được sử dụng rộng rãi để trang trí cả nội thất và ngoại thất các cung điện ở Huế. Đây là những tác phẩm nghệ thuật hoặc các chi tiết trang trí trong kiến trúc Huế. Theo sử sách nhà Nguyễn, kỹ thuật chế tác pháp lam ở Việt Nam bắt đầu vào năm 1827 và phát triển mạnh mẽ dưới các triều vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), và Tự Đức (1848-1883); nhưng suy giảm sau thời kỳ tứ nguyệt tam vương và dù được cố gắng phục hồi dưới triều Đồng Khánh (1885-1889), kỹ thuật này vẫn không thể phục hồi hoàn toàn và dần rơi vào quên lãng. Thời gian tồn tại của kỹ nghệ pháp lam Huế chỉ hơn 60 năm, nhưng di sản còn lại tại cố đô Huế vẫn phong phú về số lượng và đa dạng về loại hình và kiểu thức.
Hiện tại ở Huế, nhiều nhóm nghiên cứu đang nỗ lực phục chế pháp lam. Mặc dù phương pháp và mức độ thành công của các nhóm nghiên cứu có khác nhau, nhưng họ đã có những bước tiến đáng kể trong việc trùng tu di tích và phục hồi một nghề truyền thống từng được coi là thất truyền.
Chú thích
- Trong cuốn Nguyễn Phúc tộc thế phả xuất bản năm 1995, trang 123, tên húy của chúa Nguyễn Phúc Lan được viết bằng Hán tự là 灡 và đọc là 'Lan'. Theo quy định về húy của triều Nguyễn, tại sao triều đình Huế lại đặt các chức danh có âm gần giống như: Lang Đạo, Lang Chiên, Thị Lang, Lang Trung, Đặng Sĩ Lang, Tá Quốc Lang...? Nguồn Quan chức nhà Nguyễn-Nhà xuất bản Thuận Hóa, năm 2000.
- Âm Lan là quốc húy của triều Nguyễn. Theo chỉ dụ Gia Long năm thứ 6 (1807) về các chữ húy cần tránh âm khi làm văn, những chữ húy bao gồm 6 chữ: Noãn (暖); Ánh (映); Chủng (種); Luân (輪); Hoàn (環) và Lan (籣).
- Đây là thời kỳ đen tối nhất của triều Nguyễn, sau khi vua Dục Đức bị truất phế, chỉ trong 4 tháng, hai quyền thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã lập và truất phế thêm hai vua Hiệp Hòa và Kiến Phúc, dẫn đến câu nói ở Huế: Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết, Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường (Một sông hai nước khó phân thuyết, bốn tháng ba vua triệu chẳng lành).
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục. Nhà xuất bản Khoa học, Hà Nội, năm 1964.
- 故宫藏金属胎珐琅器 (Cố cung tàng kim thuộc thai pháp lang khí). Biên soạn: 陈丽华 (Trần Lệ Hoa).
- Tạp chí Bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế - Chuyên đề Pháp lam
Liên kết
- Phục chế Pháp lam Huế: Cần nghiên cứu kỹ lưỡng Lưu trữ 2005-11-23 tại Wayback Machine
- Pháp lam trên trang Gốm cổ Huế Lưu trữ 2007-09-29 tại Wayback Machine
- Pháp lam Huế-Những nhận thức mới I Lưu trữ 2005-11-19 tại Wayback Machine
Trang sức
| |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Các dạng |
| ||||||||||||
Chế tác |
| ||||||||||||
Vật liệu |
| ||||||||||||
Thuật ngữ |
| ||||||||||||
|