Truyền thuyết kể rằng dưới đại dương tồn tại những con rùa siêu khổng lồ, khiến các thủy thủ nhầm lẫn rằng chúng là một hòn đảo nhỏ, cho đến khi chúng bắt đầu bơi và mọi người mới nhận ra sự thật. Liệu rằng rùa biển có thể phát triển đến kích thước đó không? Con rùa biển lớn nhất mà nhân loại biết đến là gì?
Vào năm 1895, nhà cổ sinh vật học George Reber Wieland đã phát hiện ra hóa thạch của một sinh vật khổng lồ tại sông Cheyenne, Nam Dakota, Hoa Kỳ. Wieland sau đó đã chuyển các hóa thạch này đến Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Peabody tại Đại học Yale và đánh số chúng là YPM3000.
Khi YPM3000 được làm sạch và lắp ghép lại, mọi người đã nhìn thấy một hóa thạch rùa biển siêu khổng lồ. Mặc dù hóa thạch này chỉ thiếu hộp sọ và một số chi, nhưng độ nguyên vẹn vẫn khá cao. Nhà cổ sinh vật học suy đoán rằng một số phần bị mất do tác động từ các động vật ăn thịt và ngoại lực khổng lồ. Năm 1898, hóa thạch thứ hai của một loài rùa biển khổng lồ khác cũng được phát hiện trong khu vực này, nhưng hóa thạch này vẫn giữ được hộp sọ.

Sau khi nghiên cứu hóa thạch của loài rùa biển khổng lồ này, Wieland đặt tên nó là Archelon ischyros, lấy từ tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là 'đầu tiên, sớm nhất' và 'rùa'.
Năm 1900, Wieland đặt tên loài thứ hai là Archelon marshii. Tuy nhiên, vào năm 1909, ông nhận ra rằng loài này thực ra thuộc về Protostega chứ không phải Archelon, vì vậy ông đã đổi tên nó thành Protostega marshii.
Năm 1902, các nhà cổ sinh vật học phát hiện hóa thạch rùa biển cổ đại thứ ba tại sông Cheyenne, và lần này, hóa thạch này còn hoàn chỉnh hơn so với hai loài trước đó. 90 năm sau, vào năm 1992, hóa thạch của loài rùa biển cổ đại thứ tư (Archelon) được tìm thấy ở Quận Oglarakta, Nam Dakota, được gọi là Brigitta, là hóa thạch rùa biển cổ đại lớn nhất từng được phát hiện.
Sau 10 năm kể từ khi phát hiện hóa thạch rùa biển cổ đại thứ tư, chúng ta đã tìm thấy hóa thạch rùa biển cổ đại thứ 5 tại Cooperstown, Bắc Dakota, tuy nhiên, hóa thạch này không hoàn chỉnh. Hiện nay, chúng ta đã khám phá tổng cộng năm hóa thạch rùa biển cổ đại.

Archelon được biết đến là loài rùa biển lớn nhất từng tồn tại. Mẫu vật YPM3000 có chiều dài 3,52 mét, nhưng không thể hiện đúng kích thước thực của loài rùa biển cổ đại này. Trong khi đó, hóa thạch Brigita là mẫu rùa biển Archelon lớn nhất được biết đến, chiều dài cơ thể lên đến 4,6 mét, chiều rộng giữa các chân chèo 4 mét và trọng lượng ước tính khoảng 2,2 tấn. So với rùa biển lớn nhất hiện nay - rùa luýt, Archelon thực sự có kích thước khổng lồ hơn nhiều. Rùa luýt chỉ nặng khoảng 700 kg, và một số cá thể phát triển đột biến có thể nặng gần 1 tấn, nhưng chúng vẫn nhỏ bé hơn rất nhiều so với Archelon.


Rùa biển Archelon có vẻ ngoài rất giống với rùa luýt ngày nay, và giữa hai loài này có một mối quan hệ nhất định. Archelon có đầu to và dài, thậm chí dài hơn phần thân trên của một người trưởng thành. Phần trước miệng của rùa Archelon tương tự như mỏ vẹt, mỏ có sừng cứng và có lực cắn rất lớn.

Cơ thể của rùa biển Archelon hình bầu dục, các xương sườn đã liên kết với nhau để hỗ trợ cơ thể lớn. Giống như rùa luýt, Archelon có da cứng thay vì mai cứng như rùa cạn. Trên lưng rùa Archelon có một chiếc đuôi mỏng và ngắn, các chân chèo từ lâu đã phát triển thành chân chèo để bơi, cặp chân chèo phía trước lớn nhưng phía sau nhỏ. Theo hóa thạch, tỷ lệ phần xương của chi trước của rùa biển Archelon lớn, cho thấy chúng dựa vào cặp chân chèo phía trước để bơi.


Rùa biển Archelon sống trong kỷ Phấn trắng muộn cách đây 80-74 triệu năm. Hóa thạch cho thấy chúng sống ở đường biển nội địa phía tây, vùng biển nông ấm áp chia Bắc Mỹ thành hai phần. Archelon không thích hợp để bơi đường dài ở những vùng biển sâu, thích sống ở vùng biển nông. Archelon ăn thịt và lặn xuống đáy biển để tìm sò có vỏ cứng, sau đó dùng miệng bóp mạnh vỏ cứng để ăn thịt bên trong, cũng có thể ăn các loại ốc, mực, cá, v.v.

Bắc Mỹ cách đây 75 triệu năm.

Hình ảnh tái hiện của loài rùa biển Archelon.
Rùa biển Archelon biến mất cách đây 74 triệu năm. Các nhà cổ sinh vật học tin rằng nguyên nhân của việc này bao gồm các loài săn mồi trên cạn và động vật ăn thịt dưới biển, đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn tại của rùa biển cổ sơ sinh. Đồng thời, những biến đổi không bình thường trong đại dương như thay đổi nhiệt độ đột ngột đã khiến chúng không thể sống sót đến cuối kỷ Phấn trắng.
