Phật (chữ Hán: 佛, tiếng Phạn/tiếng Pali: बुद्ध, phiên âm: Buddha) hay Bụt (Chữ Nôm: 侼, hoặc Bụt Đà, chữ Phạn: Buddhã) trong đạo Phật có nghĩa là Bậc Giác Ngộ, ám chỉ một vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã đạt đến sự tinh khiết và toàn hảo trong đạo đức và trí tuệ nhờ nỗ lực tự thân thực hành các pháp Ba-la-mật qua nhiều kiếp sống. Trí tuệ của một vị Phật là tuyệt vời (Nhất thiết trí) và đầy lòng từ bi vô hạn với tất cả chúng sinh, không phân biệt. Sự giác ngộ này có bản chất siêu nhiên, theo Phật giáo, không thể diễn tả bằng ngôn từ mà chỉ có thể cảm nhận khi đã trải nghiệm. Những chúng sinh trên con đường thành Phật, chuyên tâm thực hành các hạnh Ba-la-mật và phát tâm từ bi được gọi là Bồ tát. Khi trở thành Phật, không chỉ trí tuệ và đức hạnh mà còn hình thể với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp thanh tịnh, tuy nhiên, Phật toàn giác không phải là toàn năng (Đức Phật là 'toàn tri' và 'toàn giác' nhưng không phải 'toàn năng'. Ngài chỉ dẫn con đường giải thoát, và do không toàn năng, Đức Phật không thể ban thưởng hay phạt ai, mỗi người phải tự tu hành để đạt kết quả của mình).
Thuật ngữ này thường chỉ một vị Phật lịch sử tên là 'Thích Ca Mâu Ni', một nhân vật có thực đã truyền bá tư tưởng của mình ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, và những giáo lý của Ngài đã trở thành nền tảng của Phật giáo. Tuy nhiên, theo lời giảng của Tất-đạt-đa Cồ-đàm, Ngài chỉ là vị Phật duy nhất trên Trái Đất trong thời gian này, nhưng trong toàn vũ trụ, cả quá khứ và tương lai, còn có vô số vị Phật khác. Họ tồn tại ở các thế giới khác hoặc ở những thời điểm khác nhau: nhiều vị đã đắc đạo trong quá khứ, nhiều vị đang sống trong hiện tại (ở các thế giới khác) và nhiều vị sẽ đắc đạo trong tương lai. Theo lời Ngài, trong một thời điểm rất xa trong tương lai, Trái Đất sẽ chứng kiến sự xuất hiện của một vị Phật nữa, đó là Bồ Tát Di Lặc trở thành Phật Di Lặc.
Một phần của loại bài về |
Phật giáo |
---|
Lịch sử[hiện] |
Khái niệm[hiện] |
Kinh điển[hiện] |
Tam học[hiện] |
Niết-bàn[hiện] |
Tông phái[hiện] |
Ở các nước[hiện] |
Cổng thông tin Phật giáo |
Theo quan điểm của Phật giáo, sự xuất hiện của một vị Phật là rất hiếm hoi. Có nhiều thời kỳ và giai đoạn dài trong các chu kỳ thế giới không có bất kỳ vị Phật nào xuất hiện, nếu có thì thường là những vị Phật Độc Giác, những vị này thường không giảng dạy nhiều, vì vậy chúng sinh không có phương tiện giải thoát. Vị Phật thường được coi là đại diện cho các vị Phật quá khứ là Nhiên Đăng Cổ Phật. Còn vị Phật tương lai dự kiến sẽ xuất hiện trên Trái Đất là Di-lặc. Trong Phật giáo Bắc tông, còn có các phân loại như Phật mẫu (Phật bà), Phật vương, Phật tổ (Phật chủ), Phật tử. Ngoài ra, còn có các tầng tu hành thấp hơn Phật như: Duyên giác (Phật độc giác) và Thanh văn (những người nghe Phật giảng dạy và đạt quả vị A-la-hán).
Ý nghĩa từ nguyên
Từ 'Buddha' hay còn được gọi là 'Buddhaya' có nghĩa là bậc trí thức, người hiểu biết; trong tiếng Việt gọi là 'Bụt', 'Bụt-đà' hay 'Bụt-đà-da', và được gọi là 'Phật' trong tiếng Hán. Trong các tác phẩm văn học dân gian, 'Phật' được sử dụng phổ biến hơn 'Bụt' vì thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, các bên đều mời các cao tăng từ Trung Quốc sang giảng đạo, khiến từ Bụt bị lấn át và dần bị lãng quên. 'Bụt' là từ phiên âm tiếng Việt từ chữ Phạn Buddhã. Từ Bụt xuất hiện trong ngôn ngữ Việt từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 6, do các thiền sư Ấn Độ dịch từ chữ Phạn Buddhã, có nghĩa là bậc Đại Giác, Đại Trí, bậc Giác Ngộ, Người Đạt Trí Tuệ Tột Cùng.
Danh từ Bụt được phiên âm từ chữ Phạn Buddhã, vì âm B tương đồng nhau. Trong tiếng Anh và Pháp cũng dùng âm B để dịch (Pháp: Boudha, Anh: Buddha); nhiều quốc gia Phật giáo Nam Tông cũng dùng âm B để dịch chữ Buddhã từ tiếng Phạn, mặc dù cách phát âm có khác nhau. Theo xu hướng thống nhất cách phiên âm, hiện nay, Phật giáo Bắc tông, với Trung Quốc là trung tâm, từ lâu đã dịch Buddhã là Phật-đà (佛 陀) và gần đây mới bắt đầu dùng chữ Bột đà (勃 陀) để chỉ bậc Giác Ngộ. Theo Tự điển Phật Học Hán Việt của Phân viện Nghiên cứu Phật học Hà Nội xuất bản năm 1992, và tham khảo từ Thực Dụng Phật Học Từ điển của Lô Quán Cao và Hà Tử Bồi xuất bản ở Thượng Hải, thì: Bột đà 勃 陀 Buddha (Thuật ngữ), còn gọi là Bột đà. Cách gọi cũ là Phật đà. Gọi tắt là Phật - dịch là Giác (覺).
Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, khi được hỏi 'Tại sao dùng từ đạo Bụt?':
- 'Chúng tôi chọn từ đạo Bụt thay vì đạo Phật vì chúng tôi cho rằng từ Bụt mang tính dân tộc hơn. Các nước xung quanh chúng ta đều gọi Buddha là Bụt. Dân Việt Nam cho đến thế kỷ XIII - XIV vẫn gọi Buddha là Bụt. Chỉ từ khi quân Minh xâm lược, chúng ta mới bắt đầu gọi là Phật. Nếu quý vị đọc Đắc Thú Long Tuyền Thành Đạo Ca của vua Trần Nhân Tông, quý vị sẽ thấy ngài vẫn dùng từ Bụt. Tổ thứ ba của phái Trúc Lâm, ngài Huyền Quang, cũng dùng từ Bụt. Thiền sư Khuy Cơ, một đệ tử lớn của Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang, cho rằng: 'Chữ Buddha đáng lẽ phải dịch là Bụt Đà nhưng đã bị dịch nhầm thành Phật'. Chính các cao tăng Trung Quốc đời Đường đã nhận thấy điều này. Vậy tại sao một quốc gia sai lầm thì các quốc gia khác cũng phải theo sai lầm? Chúng tôi quyết định sử dụng từ Bụt và đạo Bụt. Nếu cần dùng danh từ Hán Việt, chúng ta dùng Phật giáo, còn nếu nói đạo thì là đạo Bụt. Ngày Phật đản hay ngày đản Bụt, Phật tử hay con Bụt. Như vậy, ngôn ngữ của chúng ta thêm phong phú vì chúng ta không bỏ từ Phật mà phục hồi từ Bụt. Trong tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng, chúng tôi sử dụng từ Bụt, vì nó thân thương và gần gũi hơn nhiều so với từ Phật. Trong kho tàng truyện cổ tích và ca dao của nước ta, dân chúng vẫn duy trì cách gọi Buddha là Bụt'.
Giải thích danh từ 'Bụt' theo từ điển Việt Nam:
- Việt Nam Từ điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, xuất bản lần đầu tại Hà Nội năm 1931. 'Bụt': Là cách gọi Ông Phật. Ví dụ trong câu: Lành như Bụt (tục ngữ). Đất Vua, chùa làng, phong cảnh Bụt (thơ cổ).
- Từ điển Việt Nam, Khai Trí Sài Gòn, 1971. 'Bụt': Ông Phật. Ví dụ trong câu: Bụt cũng nực cười ông ngất ngưỡng (Nguyên Công Trứ).
- Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1988. 'Bụt': Phật, theo cách gọi dân gian. Ví dụ trong câu: Lành như Bụt, Bụt chùa nhà không thiêng.
- Việt Anh Tự Điển, Nguyễn Văn Khôn, Sài Gòn, 1972. 'Bụt': Buddha.
“Phật” là từ gốc Hán, bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán của từ chữ Hán “佛”. E. G. Pulleyblank phục hồi cách phát âm của từ “佛” trong tiếng Hán trung cổ sơ kỳ là but. “Phật” xuất phát từ cách phát âm trong tiếng Hán trung cổ hậu kỳ của từ “佛”. Pulleyblank phục hồi cách phát âm trong tiếng Hán trung cổ hậu kỳ là fɦjyt (từ but chuyển thành, sau đó fɦjyt biến đổi thành fɦut) và fɦut (do fɦjyt biến đổi thành). Pulleyblank cho rằng từ “phật” trong tiếng Việt bắt nguồn từ âm fɦjyt của từ “佛”.
Trong tiếng Hán, tên gọi của Phật đã được phiên âm từ nhiều ngôn ngữ khác nhau thành nhiều dạng khác nhau, ví dụ như “佛陀” (âm Hán Việt: phật đà), “浮陀” (phù đà), “浮圖” (phù đồ), “浮頭” (phù đầu), “勃陀” (bột đà), “勃馱” (bột đà), “部多” (bộ đa), “部陀” (bộ đà), “毋陀” (vô đà), “沒馱” (một đà), “佛馱” (phật đà), “步他” (bộ tha), “浮屠” (phù đồ), “復豆” (phục đậu), “毋馱” (vô đà), “佛圖” (phật đồ), “步陀” (bộ đà), “物他” (vật tha), “馞陀” (bột đà), “沒陀” (một đà) và nhiều dạng khác. Tên gọi “phật” 佛 trong tiếng Hán thường được coi là viết tắt của “phật đà” 佛陀, phiên âm tiếng Hán của tên gọi tiếng Phạn “buddha”. Tuy nhiên, Quý Tiện Lâm (季羨林) cho rằng cách giải thích này không chính xác. Ông cho rằng “phật” 佛 không phải là viết tắt của “phật đà” 佛, mà “phật” 佛 và “phật đà” 佛陀 bắt nguồn từ hai ngôn ngữ khác nhau, trong đó “phật” 佛 xuất hiện trước “phật đà” 佛陀. Theo Quý Tiện Lâm, tên gọi “phật” 佛 trong tiếng Hán là phiên âm từ một ngôn ngữ cổ thuộc ngữ tộc Iran.
Kinh Phật ban đầu không được dịch sang tiếng Hán từ tiếng Phạn hay tiếng Pali, mà được dịch từ nhiều ngôn ngữ cổ ở vùng Trung Á và Tân Cương. Theo Quý Tiện Lâm, trong các ngôn ngữ cổ thuộc ngữ tộc Iran, tên gọi hai âm tiết “buddha” trong tiếng Phạn đã biến đổi thành tên gọi chỉ có một âm tiết, ví dụ như:
- Tiếng Ba Tư cổ trong kinh điển của tôn giáo bái hoả: bwt
- Tiếng An Tức (安息) của Ma Ni giáo (摩尼教): bwt, but
- Tiếng Túc Đặc (粟特) trong Ma Ni giáo: bwty, pwtyy
- Tiếng Túc Đặc trong Phật giáo: pwt
- Tiếng Dari: bot
Các hình thức của Phật
Có hai cấp bậc của Phật:
- Độc Giác Phật (sa. pratyeka-buddha): Người đã đạt đến giác ngộ hoàn toàn. Về phương diện giải thoát, trí tuệ và công đức, nhưng vẫn chưa đạt đến mức độ trọn vẹn như Chánh Đẳng Giác.
- Tam-miệu-tam-phật-đà (sa. samyak-saṃbuddha): Dịch là Phật Chính Đẳng Chính Giác hoặc Phật Toàn Giác. Người không chỉ đạt giác ngộ mà còn có khả năng hướng dẫn chúng sinh về những gì mình đã chứng ngộ. Đây là cấp bậc cao hơn so với Độc Giác Phật.
Kinh điển thường đề cập đến Tam thế Phật (chữ Hán: 三世佛), ám chỉ rằng trong thế gian có vô số các vị Phật đã, đang và sẽ xuất hiện qua ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại và tương lai. Khái niệm này bao hàm tất cả các vị Phật trong ba đời và mười phương thế giới (trong đó Phật Nhiên Đăng đại diện cho chư Phật trong quá khứ, Phật Thích-ca là vị Phật hiện tại, và Phật Di-lặc biểu thị cho chư Phật trong tương lai).
Kinh Phật chủng tính (Phật sử) đề cập đến 28 vị Phật Toàn giác trong quá khứ, với Phật Thích-ca là vị Phật thứ 28.
28 vị Phật trong quá khứ
Xem thêm: Danh sách các vị Phật
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chi tiết: Siddhārtha Gautama
Phật A Di Đà
Chi tiết: Phật A Di Đà
Phật Di Lặc
Chi tiết: Phật Di Lặc
Tính Phật
Xem thêm: Tính Phật
Tính Phật, được coi là cội nguồn của mọi hiện tượng; mọi hiện tượng đều là sự biểu hiện của Tính Phật. Trong khi phái Nam tông chỉ công nhận có một vị Phật duy nhất trong mỗi thời đại, và vị này phải là một nhân vật lịch sử và là đạo sư giảng dạy, thì Bắc tông cho rằng có vô số vị Phật với các biểu hiện khác nhau. Theo quan điểm Tam thân (sa. trikāya) của Bắc tông, Tính Phật biểu hiện qua ba dạng chính, mỗi dạng Phật thể hiện một đặc tính của Chân như.
Các dạng siêu việt của Tính Phật, Chân như (xem Phật gia) bao gồm các vị Phật A-di-đà, Đại Nhật, Bảo Sinh, Bất Động, Bất Không Thành Tựu, và Kim Cương Tát-đoá. Các vị này là thầy của các vị Bồ Tát và là giáo chủ của các Tịnh độ. Các dạng Phật siêu việt của Chân như đều mang đặc tính siêu thế gian, thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, siêu việt, và vô lượng thọ. Theo quan điểm Tam thân, Báo thân Phật (sa. saṃbhogakāya) là hình ảnh lý tưởng mà các Bồ Tát tự tạo ra để học tập theo. Báo thân chính là Chân tâm của Ứng thân, hay Hoá thân (sa. nirmāṇakāya), là thân Phật dạng con người sống trên trái đất. Vào khoảng năm 750 Công Nguyên, khi Kim cương thừa xuất hiện, các trường phái Bắc-tông cũng chấp nhận thêm năm vị Phật chuyển hóa từ Pháp thân, gọi là Ngũ Phật hay Phật gia, vì mỗi vị Phật này được xem là có thêm một vị Phật lịch sử (đã sống trên trái đất) và một vị Bồ Tát đi kèm:
- Cùng với Phật Đại Nhật là vị Ca-la-ca-tôn-đại (sa. krakuccanda) và Phổ Hiền Bồ Tát (sa. samantabhadra).
- Cùng với Phật Bất Động (sa. akṣobhya) là vị Ka-na-ca-mâu-ni (sa. kanakamuni) và Kim Cương Thủ Bồ Tát (vajrapāṇi).
- Cùng với Phật Bảo Sinh là vị Phật lịch sử Ca-diếp (sa. kāśyapa) và Bảo Thủ Bồ Tát (ratnapāṇi).
- Cùng với Phật Bất Không Thành Tựu là vị Phật Di-lặc và Phổ Chuỳ Thủ Bồ Tát (viśvapāṇi).
- Cùng với Phật A-di-đà là Đại Thế Chí Bồ Tát và Quán Thế Âm Bồ Tát (sa. avalokiteśvara).
- Nhơn
- Thần
- Thánh
- Tiên
- Chúa
- Ngũ chi đại đạo
- Tứ đại
Chú giải
Nguồn tài liệu
- Fo Guang Đại Từ Điển. Fo Guang Đại Từ Điển biên soạn bởi uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.
- Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
- The Threefold Lotus Sutra (Kosei Publishing, Tokyo 1975), dịch bởi B. Kato, Y. Tamura, và K. Miyasaka, chỉnh sửa bởi W. Soothill, W. Schiffer, và P. Del Campana
- The Mahayana Mahaparinirvana Sutra (Nirvana Publications, London, 1999-2000), dịch bởi K. Yamamoto, biên tập và chỉnh sửa bởi Dr. Tony Page
- The Sovereign All-Creating Mind: The Motherly Buddha (Sri Satguru Publications, Delhi 1992), dịch bởi E.K. Neumaier-Dargyay
Liên kết bên ngoài
Phật giáo Việt Nam | ||
---|---|---|
Phật |
| |
Bồ Tát |
| |
Tăng già |
| |
|
Tiêu đề chuẩn |
|
---|