1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
3. Bài mẫu số 3
Đề bài: Phê bình bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
Phê bình về 3 bài văn mẫu về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
2. Bình giảng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, mẫu số 3
Dòng thơ Cát trắng và Ánh trăng của Nguyễn Duy, nhà thơ nổi tiếng trong cuộc chiến chống Mĩ. Một tâm hồn trẻ trung hiện lên như hình ảnh con sóng nhẹ nhàng của sông thơ, mang hương vị đồng quê:
Thời thơ ấu, tôi đến cống Na câu cá
Đưa bà đi chợ Bình Lâm níu váy
Bắt chim sẻ bên tai tượng Phật
Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trầm.
(Đò Lèn - Nét đẹp truyền thống)
Trong số những tác phẩm nổi tiếng như Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng, và Đò Lèn, Nguyễn Duy đã ghi dấu ấn của mình. Ánh trăng, bài thơ xuất hiện trong tập thơ cùng tên, được sáng tác vào năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ sau 3 năm kể từ khi miền Nam giành được toàn thắng. Bài thơ như một lời chia sẻ chân thành, nói về vẻ đẹp tự nhiên của quê hương và những ký ức khó quên về thời kỳ kháng chiến.
Trái với bài thơ Tre Việt Nam, ở Ánh trăng, câu thơ lục bát có thể được chia thành 2 hoặc 3 dòng để tạo ra ảnh hưởng nghệ thuật mạnh mẽ. Chữ cái đầu của mỗi dòng thơ không được viết hoa, có thể là ý của nhà thơ về việc để cảm xúc lăn tăn theo dòng thời gian và ký ức.
Hai khổ đầu thể hiện về vầng trăng trong tuổi thơ và thời chiến. Vầng trăng ấu thơ mở ra trước một không gian rộng lớn: 'Hồi nhỏ sống với đồng - với sông rồi với bể'. Hai câu thơ 10 chữ, nối vần lưng (đồng - sông); từ 'với' lặp lại 3 lần, mô tả một tuổi thơ phong phú, hạnh phúc, khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên. Những trải nghiệm ngắm trăng trên đồng quê, dòng sông, và bãi biển không phải ai cũng may mắn như nhà thơ. Trong khi đó, nhà thơ Trần Đăng Khoa ở tuổi thơ chỉ ngắm trăng trên sân nhà: 'Ông trăng tròn sáng tỏ - Soi rõ sân nhà em... Chỉ có trăng sáng tỏ - Soi rõ sân nhà em...' (Trăng sáng sân nhà em).
Kí ức về tuổi thơ, nơi trăng là niềm hồi ức xa xôi. Hai dòng thơ tiếp theo tả về thời chiến, trăng trở thành 'tri kỉ':
Thời chiến tranh trong rừng
Trăng trở thành tri kỉ.
Những bài độc đáo Bình giảng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
'Tri kỉ': hiểu biết người như hiểu biết chính mình; bạn tri kỉ là người đặc biệt thân thiết và thấu hiểu mình. Trong những năm chiến đấu tại rừng, trăng đã trở thành người bạn tri kỉ của người lính - Những chiến sĩ yên nghỉ dưới ánh trăng 'Gối khuya êm bên bờ trăng sáng' (Hồ Chí Minh). Trong rừng sâu, nơi hơi sương mặn, người chiến sĩ đứng đợi giặc 'Lòng đạn trăng treo' (Chính Hữu). Nẻo hành quân của họ trở thành 'con đường trăng dát vàng'. Trăng đã chia sẻ niềm vui chiến thắng với người lính tiền phương, là niềm hy vọng giữa cảnh tàn phá của bom đạn quân đội đối với đất nước:
Và vầng trăng, vầng trăng tỏa sáng
Vượt lên trên đỉnh lửa, đỉnh cao.
(Phạm Tiến Duật)
Những người anh hùng xưa thường 'ngắm trăng ở lâu', còn anh bộ đội Cụ Hồ trải qua những thời kỳ chiến đấu khắc nghiệt, nhiều lần đứng trên đỉnh đồi cao, đi qua những dãy núi, đều say mê ngắm vầng trăng cao nguyên. Đọc những dòng thơ của Nguyễn Duy, người ta mở ra trong tâm hồn mình những hình ảnh mới: 'trong rừng chiến tranh - vầng trăng trở thành tri kỉ'.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng đầy gian lao của cuộc sống lính gắn bó với thiên nhiên, với quê hương bình dị, thân thiện. Một dòng lưng khác xuất hiện - Một so sánh ẩn dụ đặc sắc làm nổi bật tâm hồn thuần khiết, tính chất hồn nhiên của người lính trong những thời kỳ chiến đấu ở rừng. Đó là bản chất của họ:
Hòa mình với thiên nhiên
Linh thiêng như bản nghệ thuật cây cỏ.
Vầng trăng, biểu tượng tuyệt vời của những năm tháng, đã trở thành 'vầng trăng tri kỉ', 'vầng trăng tình nghĩa' dường như không bao giờ có thể phai mờ. Một ý thơ chạm đến tận đáy tâm hồn, như một lời thức tỉnh đầy ý nghĩa về lương tâm đối với những người vô tình: 'ngỡ như không bao giờ quên - vầng trăng tình nghĩa '
Sự biến đổi trong tâm hồn con người là đáng sợ. Hoàn cảnh thay đổi, con người dễ thay đổi, đôi khi trở nên vô tình, có những người trở thành 'kẻ ăn ở bạc'. Từ cuộc sống ở rừng, sau chiến thắng trở về thành phố, được trải nghiệm và tiêu tiền: buyn-đinh, cao ốc, quen với ánh sáng điện, cửa gương... Và 'vầng trăng tri kĩ', 'vầng trăng tình nghĩa' đã bị người lãng quên, phai mờ. So sánh sâu sắc khiến lòng người cảm động:
Từ khi quay về thành phố
Quen với ánh đèn và gương
Vầng trăng qua ngõ hẹp
Như người qua phố vắng.
Trăng nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, như người lạ bước qua, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai quan tâm. Người có lòng lương tâm, có tâm hồn tốt mới hiểu được sự sám hối. Sám hối để tự hoàn thiện bản thân, nâng cao giá trị nhân cách, hướng tâm hồn về ánh sáng và tầm cao. Không cần lời nói lẫn lời lẻ lẽ, thơ như một cuộc trò chuyện, thể hiện tâm sự tận cùng, nhà thơ trò chuyện với chính mình. Sự chân thành và trữ tình của thơ làm cho nó trở nên sâu sắc và chân thực.
Như dòng sông với thác ghềnh, với quanh co uốn khúc, cuộc đời cũng đầy những biến động khó lường. Ghi lại tình huống 'cuộc sống nơi đô thị' của những người từ rừng về thành phố, nhà thơ chỉ dùng 4 câu thơ, 20 từ. Các từ 'thình lình', 'vội', 'đột ngột' tạo nên tình thái đầy cảm xúc. Như một triết lý cuộc sống, vần thơ của Nguyễn Duy nói lên nhiều điều:
Đèn điện tắt bất ngờ
phòng buyn-đinh bóng tối kín
mở cửa sổ vội vã
vầng trăng hiện lên đột ngột.
Trăng xưa vẫn ghé thăm, vẫn 'tròn', vẫn 'đẹp', vẫn trung thành với mọi người, mọi nhà, với thi nhân, với người lính. Người nhìn trăng, rồi suy ngẫm ẩn sau đó là điều gì đó bí ẩn:
Ngửa mặt nhìn bóng trăng
có điều gì đó rưng rưng như là đồng,
như là sông, như là rừng.
Nguyễn Tuân từng xem trăng như 'cố nhân', còn nhà thơ Xuân Diệu, cách đây 60 năm, trong bài Nguyệt Cầm có câu: 'Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần'. Quay trở lại tâm trạng của người lính trong bài thơ này, đầy áy náy xót xa: 'Ngửa mặt lên nhìn mặt'. Hai từ 'mặt' trong vần thơ: mặt trăng và mặt người đối diện nhau như 'đàm tâm'. Trăng im lặng, người lính cảm nhận có điều gì đó 'rưng rưng'. 'Rưng rưng' là xúc động, nước mắt ứa ra sắp rơi. Giọt nước mắt làm cho lòng thanh thản, sáng tạo, tốt lành nảy ra. Ký ức đẹp ùa về, tâm hồn liên kết với thiên nhiên, với trăng xưa, với đồng, bể, sông, rừng, quê hương đất nước. Cấu trúc câu thơ kết hợp với so sánh và điệp từ (là) cho thấy tài năng văn chương của Nguyễn Duy:... 'như là đồng, là bể - như là sông, là rừng'. Thơ đẹp với chân thành, biểu cảm, hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ hình ảnh truyền cảm, chạm đến tâm hồn một cách nhẹ nhàng và thấm thiết.
Khổ thơ cuối bài thơ chứa đựng tư tưởng triết lí sâu sắc:
Vầng trăng tròn và vạnh về chi
kể chi người lạ lùng
ánh trăng im phăng phắc
đủ để ta giật mình
'Tròn và vạnh' là trăng rằm, đẹp đẽ. 'Im phăng phắc' như tờ, không tiếng động. Vầng trăng tròn và lặng lẽ 'kể chi người vô tình' là biểu tượng của lòng khoan dung, của nghĩa tình thủy chung mà không đòi hỏi đền đáp. Đó cũng là phẩm chất cao quý của nhân dân, điều mà Nguyễn Duy cùng nhiều nhà thơ khác đã cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.
Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một tuyệt tác nghệ thuật. Với thể thơ năm chữ, ông đã khéo léo sáng tạo, thể hiện tài năng xuất sắc. Vần điệu phong phú, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nguyễn Duy đã chia sẻ những điều sâu sắc nhất trong tâm hồn mình, với chất triết lí thâm trầm được thể hiện qua hình tượng tuyệt vời của 'ánh trăng'. Bài thơ mang lại giá trị về cả mặt tư duy và nghệ thuật.
""""HẾT BÀI 1""""
Trong bài giảng về thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, không chỉ giáo viên giảng bày mà còn cần hiểu thêm về cảm nhận về bài thơ. Ánh trăng của Nguyễn Duy đã gợi cho tôi những suy nghĩ về sự sống trọn vẹn và ý nghĩa của tình bạn, đồng chí, cũng như mối quan hệ với nhân dân. Câu chuyện của Nguyễn Duy thật sâu sắc và cảm động.
2. Bình giảng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, mẫu số 2:
Nước mắt trăng chảy, hòa quyện cùng thiên nhiên, tô điểm cho hành trình cuộc đời,
'Dịu dàng bên cỏ xanh
Lòng trắng như hòn ngọc
Mối tình không phai nhòa
Trăng đồng lòng gửi thương.'
Trăng tỏa sáng giữa bình minh, vẻ đẹp tinh khôi không cần phô trương, tự nhiên như hơi thở của đại dương. Trăng là biểu tượng của sự hài hòa với thiên nhiên, kết nối với mảnh đất, cây cỏ. 'Vầng trăng tình nghĩa' là biểu hiện của tình bạn chân thành, lòng tri ân, và những khoảnh khắc tuyệt vời chia sẻ.
Nhìn lại, đôi khi tôi mất đi trong cuộc sống hối hả, quên mất bức tranh tình yêu thuần khiết dành cho 'vầng trăng tình nghĩa' ấy:
'Thành phố náo nhiệt
Bóng đèn lung linh, gương soi
Vầng trăng lạc bước qua phố
Như người xa lạ qua ngang'
Bài giảng về tác phẩm Ánh trăng của Nguyễn Duy được lựa chọn cẩn thận
Trước đây, cuộc sống của tác giả gắn liền với dòng sông, bãi biển và rừng xanh. Nhưng giờ đây, môi trường sống đã đổi khác. Tác giả chuyển về sống trong thành phố, nơi mà 'quen ánh điện, cửa gương' trở nên thân quen. Cuộc sống ngày càng thay đổi, với sự thoải mái và sang trọng, dần dần khiến cho 'vầng trăng tình nghĩa' kia trở thành một ký ức xa xôi. 'Vầng trăng' ở đây là biểu tượng của những tháng năm gian khổ, những kỷ niệm về tình bạn và sự đồng lòng trong những thời kỳ khó khăn. Nhưng giờ đây, 'trăng' trở thành 'người xa lạ' trong thành phố sôi động. Cuộc sống thay đổi, con người thay đổi, nhưng những kỷ niệm ngọt ngào vẫn còn đọng lại.
Khi toàn bộ thành phố chìm vào bóng tối vì mất điện:
'Đột ngột đèn sáng lên
Phòng bỗng dưng lung linh
Mở cửa sổ toang ra
Vầng trăng tròn hiện hình.'
'Vầng trăng' xuất hiện như một bí mật bất ngờ, khoảnh khắc đó, giây phút đó,... tác giả, kinh ngạc trước vẻ đẹp tuyệt vời của vầng trăng. Bao nhiêu kí ức xưa đột ngột trỗi dậy khiến tác giả không kiềm được những giọt nước mắt:
'Ngẩng đầu nhìn bóng tròn
Cảm giác lạ lùng rưng
Như là đồng, là biển
Như là sông, là rừng'.
Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại một người bạn thân thiết từ thời thơ ấu, như gặp lại người bạn đồng hành đã cùng chia sẻ những khoảnh khắc khó khăn. Tác giả không kìm lại được cảm xúc mãnh liệt. 'Vầng trăng' làm tác giả nhớ những tháng năm gian khổ, nhớ về tình bạn, tình đồng chí, những người đã đồng lòng cùng nhau trong những tháng năm đầy thử thách.
Cuối bài thơ, Nguyễn Duy mê hoặc độc giả, chìm đắm trong suy tư về 'vầng trăng tình nghĩa' ngày xưa:
'Tròn vạnh ánh trăng lung linh
Đố ai thoáng qua không ngờ
Ánh trăng dịu dàng huyền bí
Cho lòng ta xao xuyến...'
Trăng vẫn kiên trì, thậm chí trước sự thay đổi của thời gian, vẫn giữ vững tình cảm với trái tim. Trăng biểu tượng cho lòng dung dưỡng và hòa mình với những biến đổi. Tấm lòng nhân hậu và lớn lao của trăng khiến ta phải trầm trồ, dù trăng không một lời trình bày. Trăng là biểu tượng của phẩm chất cao quý trong con người, là hình ảnh đẹp bền vững của tình bạn và tình chiến đấu trong những tháng năm khó khăn.
'Ánh trăng' của Nguyễn Duy gợi lên nhiều cảm xúc đặc biệt, làm xao lạc lòng độc giả qua thời gian. Lời thơ như những lời tâm sự chân thành, như những lời tự thú sâu sắc. Giọng thơ tĩnh lặng, trầm tĩnh. Tứ thơ đầy mới lạ. 'Ánh trăng' mang theo triết lý về lòng trung thành, khiến người đọc phải nghẹn ngào và suy ngẫm về chính mình để sống đẹp hơn, ý nghĩa hơn.
3. Diễn giả về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, ví dụ số 3:
Mình về thành phố hối hả
Tòa nhà cao, nhấp nhô núi đồi xa xa
Phố đông, nhưng lòng vẫn nhớ về ngôi làng cũ
Đèn sáng tỏa, như mảnh trăng giữa rừng dày.
Tác giả: Tố Hữu
Trăng, chủ đề bất tử của thơ ca. Với ánh sáng phù mờ, chu kỳ khúc khuỷu, trăng đã truyền cảm hứng cho các thi sĩ ngàn xưa. Nguyễn Duy, người trưởng thành từ quê hương lúa mì, trăng là hình ảnh huyền bí. Theo thời gian trôi qua, không gian biến đổi, trăng vẫn là nguồn cảm hứng bất tận cho nhà thơ và từ đó trở thành nguồn năng lượng sáng tạo.
Nguyễn Duy đã chọn hình thức thơ ngắn, với nhịp điệu tinh tế, để vô cùng sinh động hóa không gian và thời gian
Tuổi thơ bên đồng và sông, sau đó chiến tranh nơi rừng rậm, vầng trăng làm nền tảng cho mối quan hệ tri kỷ.
Hồi ức được tái hiện thông qua những hình ảnh nhanh chóng chuyển đổi. Điều đặc biệt là hình ảnh của không gian (đồng - sông - bể - rừng) thể hiện sự phát triển của thời gian và sự trưởng thành của nhà thơ (một tâm hồn lớn lên từ vùng quê). Khi vầng trăng xuất hiện, nhịp thơ chậm lại, điều này hòa quyện với sự suy ngẫm:
Hòa mình với thiên nhiên, tâm hồn như cây cỏ, không lẽ quên cái 'vầng trăng tình nghĩa' ngọt ngào.
Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
Nhà thơ nói về 'thời chiến tranh ở rừng, vầng trăng thành tri kỉ', điều này thể hiện sâu sắc mối liên kết giữa nhà thơ và vầng trăng. Chiến sĩ sống giữa rừng 'hòa mình với thiên nhiên', khi nói 'hòa mình' là muốn nhấn mạnh sự gần gũi, không có sự ngăn cản (như nhà lầu, cửa gương chẳng hạn). Tâm hồn chiến sĩ ngây thơ đến mức 'như cây cỏ'. Vì thế, vầng trăng không chỉ là 'tri kỉ', mà còn là 'tình nghĩa':
dường như không bao giờ quên
Nhịp điệu ban đầu của tự sự tái hiện thông qua sự di chuyển của không gian, qua sự biến đổi của tình cảm. Câu 'dường như không bao giờ quên' thực tế đã là quên:
Trở về thành thị, quen với ánh điện và gương soi, vầng trăng đi qua ngõ như người xa lạ bước qua đường.
Hình ảnh nhân hóa rất tinh tế 'vầng trăng đi qua ngõ'. Mặc dù trăng không cao lớn, nhưng vẫn gần gũi, quen thuộc, nhưng lại trở thành 'người xa lạ qua đường'. Điều này thể hiện rõ sự ảnh hưởng đáng sợ của môi trường đô thị lên con người! Tố Hữu đã dự báo từ rất lâu. Nguyễn Duy tiếp tục nhắc nhở, để lòng người càng sâu sắc.
Bài thơ phát triển đến một đỉnh điểm kịch tính:
Đèn điện thình lình tắt
Phòng buồn đến tăm tối
Mở cửa sổ nhanh chóng
Vầng trăng đột ngột tròn.
Ngẩng đầu nhìn bức tranh tự nhiên, có điều gì làm động đậy như đồng cỏ, như đồng nước, như là khu rừng.
Vầng trăng tỏa sáng 'đột ngột' trong bóng tối khi 'đèn điện tắt', 'phòng buồn - đèn tối om' làm rung động tâm hồn người sống trong 'quen với ánh điện, cửa gương'. Vầng trăng vẫn là 'tri kỉ', là 'tình nghĩa', và vẫn 'tròn'. 'Vầng trăng tròn' xuất hiện giữa thị trấn bóng tối khiến tâm hồn nhà thơ chao đảo. Nhìn trăng, ôm trọn những kí ức tuổi thơ, nhớ đến chiến tranh và cuộc sống của chiến sĩ:
Ngẩng đầu nhìn bức tranh tự nhiên, có điều gì làm rưng rưng như là cánh đồng, như là dòng nước, như là khu rừng.
Trong câu thơ 'ngẩng đầu nhìn mặt', tác giả sử dụng từ 'mặt' rất tinh tế. Nếu nói rõ là 'mặt trăng', câu thơ sẽ trở nên bình thường. 'Ngẩng đầu nhìn mặt' như là nhìn vào khuôn mặt của tri kỉ, khuôn mặt của tình nghĩa mà từ lâu mình đã lãng quên. Sự trung thành của vầng trăng đánh thức tâm hồn 'người vô tình'. Cuối cùng, 'mình và ta, tuy hai nhưng một'.
Cửa sổ phòng mở ra, vầng trăng là cánh cửa mở ra thế giới bao la, tâm hồn nhà thơ mở ra vô cùng sâu thẳm:
Trăng tròn vành vạnh
kể lên câu chuyện của người vô tình
Ánh trăng im lặng, làm ta giật mình.
Hình ảnh của 'vầng trăng tròn' như là một viên ngọc quý, đẹp tuyệt vời (vẻ đẹp của ánh sáng, tình nghĩa trung thành, lòng nhân hậu). Nhìn thấy 'trăng tròn vành vạnh', người vô tình cảm thấy nhược nhịp trong cái 'khuyết' của mình. 'Người vô tình' gặp lại người tri kỷ, tình nghĩa, lòng nhân hậu mà lời nói không thể diễn tả:
Ánh trăng im lặng
đủ để ta bật mình.
Sự 'bất ngờ' chân thật có sức lôi cuốn trái tim con người.
Với hình ảnh ánh trăng xuất hiện đột ngột giữa thị trấn nhộn nhịp, bài thơ trở thành một lời nhắc nhở tận sâu trong tâm hồn tác giả về những tháng ngày khó khăn đã trải qua, khi cuộc sống của người lính liên kết với tự nhiên, quê hương giản dị và thân thiện... Bài thơ gây ấn tượng bởi cách miêu tả như một cuộc trò chuyện chân thành, một lời tự nhắc nhở mang đến âm thanh trầm ổn và sâu sắc. Phần cuối của bài thơ mở ra chiều sâu triết lý tuyệt vời: Vòng tròn trăng luôn đầy đặn và yên bình, 'kể gì cho người vô tình', là biểu tượng của lòng khoan dung, tình cảm trung thành mà không đòi hỏi sự đền đáp. Đó chính là phẩm chất cao quý của nhân dân, mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và trải nghiệm một cách sâu sắc trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ.
""""---KẾT THÚC"""""
Đọc kỹ phần Phân tích bài thơ Ánh trăng để học tốt môn Ngữ Văn 9 hơn.