Nhiệm vụ: Phê phán bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
I. Dàn ý chi tiết
1. Giới thiệu
2. Phê phán thân bài
3. Đánh giá kết bài
II. Mẫu phê phán
Đánh giá bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
I. Cấu trúc đánh giá về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
1. Khởi đầu:
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.
Đánh giá chiều sâu bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
a. Bốn câu thơ đầu 'Thôn Đoài...yêu nàng': Nỗi nhớ nhung, tương tư của chàng trai:
- Sử dụng lối diễn đạt xa xôi, liên kết hai thôn làng để ẩn dụ nỗi nhớ mong, rồi tiết lộ tình cảm chân thành với cụm từ 'chín nhớ mười mong'.
b. Tám câu thơ tiếp 'Hai thôn...xa xôi': Sự hờn trách của chàng trai:
- Khi trách cô gái vì không ghé thăm, chàng trai thể hiện lòng mong đợi và tình yêu vững vàng.
- Hờn trách được thể hiện qua cảm xúc thất vọng, buồn bã vì sự xa cách của cô gái, tạo ra một bức tranh đầy bi kịch.
+ Thể hiện quy luật tâm lý mới, với chàng trai bị động trong tình cảm, giúp độc giả hiểu rõ hơn về cung bậc cảm xúc đan xen trong tình yêu.
+ Sự hờn trách không chỉ là biểu hiện tiêu cực mà còn là hình thức diễn đạt niềm hy vọng, mong đợi sự quan tâm từ đối phương.
- Đặc biệt trong quy luật tâm lý thơ:
+ Trái với quy luật tình yêu truyền thống, Tương tư của Nguyễn Bính tạo ra hình ảnh một chàng trai bị động trong tình cảm, đánh mất khả năng chủ động.
=> Tác giả muốn truyền đạt nỗi niềm tương tư một cách chân thực và khách quan.
+ Sự hờn trách không chỉ là biểu hiện tiêu cực mà còn là cách thể hiện tình yêu, nỗi nhớ mong mà chàng trai đang trải qua, tạo nên những cung bậc cảm xúc phong phú và đặc sắc trong thơ.
c. Bốn câu thơ tiếp 'Tương tư...gặp nhau':
- Bộc lộ nỗi tương tư kéo dài, mong chờ lời hồi âm từ cô gái.
- Thảo luận về niềm mong đợi, thể hiện hy vọng cô gái sẽ hiểu được tấm lòng của chàng.
- Nương theo hình ảnh lãng mạn, mong chờ ngày gặp nhau như những câu chuyện giang hồ.
d. Bốn câu thơ cuối:
- Ước mơ về tương lai với hình ảnh trầu và cau, biểu tượng của sự kết nối đôi lứa trong văn hóa Việt Nam.
- Hình ảnh giàn giầu và hàng cau là biểu tượng cho hạnh phúc hôn nhân giữa chàng trai và cô gái.
3. Kết bài:
Tổng kết suy nghĩ
II. Mẫu Văn Cảm Nhận về Bài Thơ Tương Tư của Nguyễn Bính
Nguyễn Bính, một trong những tượng đài thơ Mới từ 1932-1941, đặt mình vào hình ảnh nhà thơ đồng cảm với nền văn hóa dân dụ, tạo nên những vần thơ độc đáo với chất quê mùa. Trong số những tác phẩm nổi bật, Tương Tư là một biểu tượng với lối thơ lục bát dân dụ, tình yêu đôi lứa ấm áp và gần gũi.
Tương Tư thể hiện cung bậc cảm xúc tương tư, nhớ nhung, băn khoăn khi yêu, khắc họa hình ảnh tình yêu đơn phương, nhưng đầy thơ mộng và duyên dáng. Tình yêu như một cung bậc cảm xúc, kết hợp cả những trạng thái lửng lơ, xao lạc và những lời trách móc, ghen tuông tự nhiên. Nguyễn Bính, mặc dù không nổi bật nhưng vẫn chạm đến trái tim người đọc bằng tình yêu chân thành và gần gũi với quê hương.
'Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng'
Trong 4 câu thơ đầu tiên, nỗi nhớ nhung và tương tư của chàng trai bộc lộ rất ý vị và đáng yêu. Chàng trai sử dụng cách nói xa xôi, lấy hai thôn nơi anh và cô gái sống để ẩn dụ cho nỗi nhớ mong của mình. Tình cảm chân thành được bộc lộ qua cụm từ 'chín nhớ mười mong', với quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, không ngừng đợi chờ dù trời có mưa gió. 'Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng' là lời tỏ tình hóm hỉnh, chân thành, tạo nên bức tranh tình yêu đáng yêu, gần gũi.
Tương tư không chỉ là cảm giác nhớ thương và bồi hồi, mà còn kèm theo sự giận hờn, ghen tuông. Điều này được Nguyễn Bính thể hiện rõ trong những câu thơ tiếp theo:
'Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi...'
Chàng trai trách cô gái vì hai thôn gần sát nhau, nhưng cô gái chẳng bao giờ sang thăm, khiến chàng trai khổ sở vì nhớ mong và hy vọng. Lời thở than cảm xúc, bộc lộ nỗi lòng mong đợi. Khoảng cách không gian và tâm lý được nhấn mạnh, đồng thời tạo nên sự đảo ngược trong tình yêu, khi chàng trai bị động, nhưng tình yêu của anh vẫn mạnh mẽ, chân thành.
'Tương tư thức bao đêm qua,
Để cho ai, hỏi ai cũng chẳng biết!
Bến đò bao giờ mới gặp?
Hoa khuê giang hồ bướm gặp nhau?'
Sau những lời hờn dỗi, chàng trai tiếp tục bộc lộ tình cảm đằm thắm. Nỗi tương tư kéo dài không lời đáp, với lời than thở 'Biết hỏi ai, ai biết đâu', thể hiện mong mỏi cô gái sẽ hiểu tấm lòng. 'Bến đò bao giờ mới gặp?/Hoa khuê giang hồ bướm gặp nhau?' là mong ước sâu sắc về ngày gặp nhau, như một câu chuyện tình lãng mạn giữa chàng trai quê và cô tiểu thư khuê giang.
'Nhà em giàn giầu tươi thắm
Nhà anh hàng cau bóng thềm
Thôn Đoài nhớ lắm thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không đâu?'
Trong bốn câu thơ cuối, chàng trai ước vọng về hạnh phúc gia đình hiện hữu trong biểu tượng trầu và cau. Hình ảnh giàn giầu và hàng cau là biểu tượng của hạnh phúc đôi lứa, thể hiện sự truyền thống và mong đợi về tình yêu lâu dài. Chàng trai lại tỏ tình bóng gió 'Thôn Đoài nhớ thôn Đông', đồng thời hỏi ngọng liệu cô gái đã để lòng mình vào đâu chưa, có nhớ đến chàng trai quê mình không khi 'Cau thôn Đoài nhớ giầu không đâu?'.
Tương tư của Nguyễn Bính là một bức tranh tình cảm 'quê mùa' hòa quyện với hương vị dân dã, gần gũi với tâm hồn độc giả. Lối viết đậm chất dân gian, thơ lục bát chân chất, bài thơ nâng tình yêu lên một tầm cao mới. Những cảm xúc trong sáng, giản dị lan tỏa, thu hút người đọc từ mọi đối tượng, trở thành câu chuyện tình quen thuộc được nhắc đến nhiều trong đời sống.
Bài viết là những nhận định, phân tích về Tương tư của Nguyễn Bính. Mời độc giả tham khảo thêm Soạn bài Tương tư, Diễn biến tâm trạng của chàng trai trong bài Tương tư, Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính và Phân tích khổ thơ đầu bài Tương tư.