
1. Gốc nguồn của đất nước :
- 'Khi tôi trưởng thành, quê hương đã có từ lâu': Câu thơ mang đầy sự tự hào kết hợp với lòng biết ơn. Vì quê hương ngày nay là thành quả lớn lao mà nhiều thế hệ cha ông phải hy sinh để đạt được. Đất nước không chỉ là không gian sống được xác định bởi ranh giới yêu thương, mà còn tồn tại trong từng con người và kết nối với những kỷ niệm khó quên.
- 'Quê Hương hiện diện trong những câu chuyện 'ngày xưa kia' mẹ thường kể': Tác giả sử dụng từ ngữ tinh tế 'ngày xưa kia'. Đó là cách bắt đầu quen thuộc trong những câu chuyện cổ tích - những câu chuyện phản ánh tri thức của nhân dân và gợi lên khát vọng về cuộc sống công bằng, hạnh phúc. Bốn từ này còn làm nhấn mạnh quá khứ xa xôi của dân tộc, đồng thời gợi lên sự gần gũi thân quen trong ký ức tuổi thơ của mỗi người.
- “Đất Nước bắt đầu từ một chiếc miếng trầu mà bà đang ăn”: Đối với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước xuất phát từ những thứ nhỏ nhặt, đời thường. Điều này khiến người đọc gợi nhớ đến phong tục ăn trầu và những câu ca dao, tục ngữ về trầu cau. Ý thơ còn kể lại câu chuyện về trầu cau, nơi tình anh em và tình yêu thương gia đình dày công được thể hiện. Từ nguyên liệu văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo ra những câu thơ đương đại nhưng gần gũi.
- 'Đất Nước trưởng thành khi dân tộc biết cấy trồng tre để chống lại kẻ thù': Đất Nước phát triển và gắn bó với truyền thống đánh đuổi kẻ xâm lược của dân tộc. Hình ảnh cây tre hiện ra trong tâm trí người đọc như hình ảnh của chàng trai làng Gióng, nhổ tre ngà để chống lại quân xâm lược. Đồng thời, ý thơ gợi nhớ tính cách kiên cường, bền bỉ của con người Việt Nam.
- 'Tóc mẹ buội sau gáy, cha mẹ thương nhau bằng gừng cay và muối mặn': Trong việc giải thích về nguồn gốc của đất nước, nhà thơ không đi theo các triều đại như các nhà sử học mà chọn cách riêng của mình. Đối với NKĐ, đất nước tồn tại từ những điều giản dị nhất, đời thường nhất. Đất nước hiện hữu từ vẻ đẹp tinh tế, giản dị, dịu dàng của phụ nữ Việt Nam với thói quen búi tóc phía sau. Đất Nước còn hiện diện trong tình yêu thương thấm đẫm của cha mẹ.
- 'Cây gậy thành tên, hạt gạo trải một nắng hai sương trở nên ngọt ngào từng chút một':
Đất nước tồn tại trong việc đặt tên cho con từ những đồ vật hàng ngày như cây gậy, cột để dễ nhớ, dễ ghi nhận. Đất nước còn liên quan chặt chẽ với quá trình lao động vất vả. Cụm từ 'một nắng hai sương' kết hợp với hệ thống từ 'ngọt ngào, từng chút một' đã làm nổi bật sự cố gắng để có được hạt gạo, nguồn thức ăn quan trọng của mỗi gia đình. Điều này cho thấy, chỉ có người hiểu biết sâu rộng về văn hóa dân gian như Nguyễn Khoa Điềm mới có thể mô tả được nguồn gốc của đất nước một cách đầy sáng tạo, sống động và độc đáo.
=> Đất nước được xem như một danh từ tổng quát nhưng trong đoạn văn tác giả đã sử dụng từ 'Đất Nước' với chữ cái hoa. Điều này thể hiện sự tôn kính, tự hào với dải đất linh thiêng hình chữ S. Từ 'Đất Nước' xuất hiện với tần suất dày và được đặt trong cấu trúc tăng dần 'Đất Nước bắt đầu', 'Đất Nước lớn lên' và kết thúc bằng lời khẳng định 'Đất Nước có từ ngày đó'. Cấu trúc này phản ánh quá trình phát triển của đất nước trong ý thức, tình cảm của người Việt Nam qua nhiều thế hệ.
=> Trong đoạn văn tác giả đã sử dụng hiệu quả nguyên liệu văn hóa dân gian. Điều đặc biệt là nhà thơ không trích dẫn câu ca dao, tục ngữ, không kể những chi tiết phức tạp của các phong tục tập quán, những câu chuyện cổ tích mà chỉ gợi ra thông qua một số hình ảnh, từ ngữ tiêu biểu. Thông qua đó đã thể hiện một hình ảnh đất nước gần gũi, đơn giản nhưng mang lại sức sống.
2. Khái niệm đất nước
- Trong đoạn thơ theo dòng trữ tình, chính luận, tác giả đã trả lời cho câu hỏi 'đất nước là gì?'. Cách giải thích về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới lạ, độc đáo. Nhà thơ không định nghĩa chung mà phân chia đất nước thành hai thành phần đất và nước rồi sau đó kết hợp lại thành đất nước. Qua đó, vừa cụ thể hóa đất nước vừa biến khái niệm đất nước từ trừu tượng trở nên dễ hiểu, gần gũi. Đồng thời thể hiện quan điểm mới mẻ, độc đáo về hình tượng đất nước trong tư duy của người trẻ.
- Khái niệm đất nước ở phương diện địa lý:
+ Đất nước liên kết với không gian quen thuộc, đơn giản:
'Đất là nơi ta đến trường'
'...nỗi nhớ thầm'
+ Lâu nay chúng ta thường nhìn đất nước ở quan điểm xa xôi lớn lao nên bỏ qua những không gian bình dị xung quanh. Tuy nhiên, Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước từ góc độ rất gần nên ông thấy đất nước thật gần gũi, gắn bó với cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Đất nước gần gũi thân thương như trường học mỗi ngày, như dòng nước ta tắm hàng ngày, như góc phố con đường nơi mỗi cặp đôi hẹn hò.
+ Không gian rộng lớn, kỳ vĩ:
'Đất là nơi chim phượng hoàng bay vời...
...không gian bao la.'
Chỉ với 3 câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã mô tả rõ hình ảnh một đất nước tráng lệ rộng lớn với núi sông rừng biển. Hai hình ảnh núi và biển đem lại cảm giác rực rỡ, tươi đẹp, gợi lên hình ảnh một đất nước bao la và giàu có.
+ Không gian sinh tồn: 'Đất nước là nơi mà dân ta đoàn kết': Là nơi sinh sống của cộng đồng dân tộc qua nhiều thế hệ.
- Khái niệm đất nước trong phương diện lịch sử văn hóa:
+ Đất nước liên kết với truyền thuyết lịch sử:
'Đất là nơi chim trở về...
...trong vỏ trứng'
=> Bằng chất liệu văn hóa dân gian, nhà thơ đã đánh thức sâu trong lòng người đọc tình yêu nước và niềm tự hào về dòng dõi con rồng cha tiên. Theo Nguyễn Khoa Điềm, Việt Nam ta là nơi đất mẹ tốt, nước thiêng nên rồng sinh sống. Các dân tộc đều là anh em một nhà, sinh ra từ vỏ trứng của mẹ Âu Cơ. Vì vậy phải đoàn kết gắn bó, chung sức, chung lòng, thực hiện mục tiêu chung của dân tộc.
+ Đất nước trong ý thức mối quan hệ giữa các thế hệ:
'Những ai đã khuất...
Chuyện mai sau'
=> Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, sự phát triển của đất nước không thông qua các triều đại mà thông qua mối quan hệ gắn bó giữa các thế hệ người Việt Nam. “Những ai đã khuất” chỉ thế hệ cha ông đi trước; “những ai bây giờ” là thế hệ hiện tại phải có trách nhiệm gánh vác và hoàn thành nhiệm vụ cha ông đi trước để lại. “Dặn dò con cháu chuyện mai sau” chỉ thế hệ tương lai phải biết kế thừa, giữ nguyên ngọn lửa truyền thống của dân tộc. Đó là sự kế thừa và tiếp sức vĩ đại của mấy nghìn thế hệ trên hành trình xây dựng đất nước.
'Hằng năm ăn chỗ nào làm chỗ đó
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ'
=> Trong lòng mỗi người dân Việt, dù sống ở bất kỳ nơi đâu, làm công việc gì, đều nhớ đến ngày giỗ tổ. Xuất phát từ trái tim sâu thẳm, sự xúc động và tôn trọng trước quá khứ của dân tộc, của cội nguồn đất nước. Đó là thái độ biết ơn với tổ tiên và là biểu hiện cho tư tưởng 'uống nước nhớ nguồn'.
3. Mối quan hệ và trách nhiệm của cá nhân với đất nước
- Mối quan hệ giữa cá nhân và đất nước:
'Trong anh và em hôm nay...
...mơ mộng.'
=> Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không chỉ tồn tại trong phong tục tập quán, trong tình cảm ấm nồng của cha mẹ, mà còn tồn tại trong bạn, trong tôi, trong mỗi người dân Việt Nam. Đất nước hiện hữu trong cuộc sống của mỗi con người. Mỗi cá nhân mang trong mình hình ảnh của đất nước.
- Mối quan hệ riêng chung:
'Khi hai người cầm tay..
...hòa hợp nồng thắm'
=> Tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước hòa hợp. Từ tư tưởng 'mỗi gia đình là một tế bào của xã hội', Nguyễn Khoa Điềm khẳng định đất nước và cá nhân có mối quan hệ riêng chung thống nhất. Khi hai người cầm tay nhau có nghĩa là khi cá nhân gắn bó với cá nhân thì đất nước đẹp đẽ, thơ mộng và tràn đầy tình yêu. Câu thơ thể hiện niềm hạnh phúc riêng nằm trong hạnh phúc cộng đồng và tình yêu lứa đôi là cơ sở của tình yêu đất nước.
4.Tư tưởng đất nước là của nhân dân
a.Tư tưởng đất nước là của nhân dân trên phương diện không gian địa lý:
'Những người vợ...
Bà Đen Bà Điểm'
- Bằng cách liệt kê, tác giả đã dẫn dắt độc giả qua từng miền đất Việt, từ Bắc vào Nam, để thấy được vẻ đẹp của đất nước Việt Nam với những danh lam thắng cảnh sâu lắng tận tâm hồn người Việt.
=> Đoạn thơ là những khám phá mới về thiên nhiên của đất nước. Núi Bút non Nghiên, hòn Trống Mái, núi Vọng Phu từng quen thuộc nay trở nên lạ và độc đáo. Theo tác giả, mỗi danh lam thắng cảnh không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà còn gắn với tâm hồn của những người dân vô danh. Chính nhân dân đã cống hiến sức mạnh của mình để tạo nên những dáng hình núi sông độc đáo của đất nước. Như vậy, tác giả không chỉ nhìn thiên nhiên với ánh mắt sâu thăm mà còn thấy vẻ đẹp tri thức, tinh tế, và tâm hồn của những con người Việt.
- Để hình thành bức tranh đất nước, cũng cần phải có những hình ảnh gợi nhớ về quá khứ hào hùng, về truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông. Độc giả sẽ nhớ mãi hình ảnh của Thánh Gióng với cánh cung tre đánh đuổi quân giặc Ân. Mặc dù giặc đã bị tiêu diệt, Thánh Gióng đã bay lên trời, nhưng ông vẫn để lại dấu tích trong lòng giang sơn. 99 con voi quay về đất tổ, chỉ có một con voi quay hướng khác, nhưng lại bị chặt đầu.
=> Cảm nhận về vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước qua 4000 năm lịch sử, tác giả đã rút ra một kết luận sâu sắc:
'Và ở đâu
..núi sông ta'
Qua những câu văn sâu lắng, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định rằng tất cả những danh lam thắng cảnh của đất nước chúng ta, từ nơi này đến nơi khác, đều được nhân dân ta tạo dựng. Họ đã để lại dấu ấn cuộc đời, thể hiện mong muốn của mình lên mỗi ngọn núi, con sông. Bằng sự tôn trọng, tác giả đã đặt cái nhìn trọng thể của mình vào nhân dân - những người làm nên đất nước.
b.Tư tưởng đất nước là của nhân dân trên phương diện lịch sử
- 'Em ơi em...
Chúng ta.'
Với lối văn sâu lắng, Nguyễn Khoa Điềm đã ảnh hưởng trực tiếp đến tâm tư, tình cảm của thế hệ trẻ Việt Nam; thức tỉnh tinh thần yêu nước của họ, kêu gọi họ tiếp tục truyền thống của cha ông; khuyến khích họ phát huy sức trẻ để truyền lại và giữ mãi ngọn đuốc sống của dân tộc. “Người người lớp lớp” là những từ ngữ tạo nên sự liên kết, nối tiếp giữa các thế hệ. Còn 'bằng tuổi chúng ta” chỉ thế hệ trẻ trung, tràn đầy hoài bão và lý tưởng.
- Bằng cảm hứng ngợi ca, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của người dân Việt Nam. Mọi thế hệ, mọi thời đại đều nhận thức được trách nhiệm của mình với đất nước. Khi đất nước hoà bình 'họ cần cù làm luỵng'. Ý thơ gợi sự chiều thương chiều khó và cả sự lao động của người lao động. Họ siêng năng, chăm chỉ tạo ra của cải, vật chất để đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Nhưng khi đất nước có chiến tranh, người con trai sẵn sàng ra trận, sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình cho tổ quốc. Họ bỏ lại sau lưng mái nhà thân thương và bao nhiệm vụ chưa hoàn thành. Người con gái ở nhà 'nuôi cùng con' vừa là hậu phương vững chắc vừa chăm sóc mẹ già nuôi dạy con thơ, bảo ban em nhỏ. Và khi giặc đến nhà, họ cũng mạnh mẽ dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu và chấp nhận hi sinh.
→ Nhìn lại 4000 năm lịch sử, nhà thơ không điểm lại các triều đại, không nhấn mạnh đến những anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến những con người vô danh, đến sự hi sinh thầm lặng của họ. Trong số bao người con trai, con gái đã ngã xuống, họ đều sống giản dị và chết bình tâm. Tên tuổi họ không ghi danh sử sách nhưng những hi sinh thầm lặng của họ đã góp phần tạo nên đất nước trường tồn.
- Nhân dân không chỉ làm nên đất nước mà họ còn làm nên giá trị vật chất, chất tinh thần. Họ giữ gìn những nét văn hóa của dân tộc qua bao thăng trầm của lịch sử.
'Họ giữ và truyền...
... Đánh bại'
=>Từ “họ” trong đoạn thơ mang ý nghĩa khái quát. Đó là nhân dân, là cha ông thuở trước, những con người vô danh ấy đã lưu trữ và truyền lại cho con cháu mọi giá trị vật chất và tinh thần. Các từ “giữ, truyền, gánh” khắc hoạ cuộc chạy tiếp sức của nhân dân để lưu truyền giá trị văn hóa qua bao thế hệ. Nhờ họ mà con cháu sau này có hạt giống gieo trồng cho mùa màng bội thu. Cũng nhờ họ mà tiếng Việt ngày càng phong phú để rồi những đứa trẻ được lớn lên trong tiếng nói của cha ông. Họ còn mang theo cả tên xã, tên làng, mang theo những phong tục, tập quán khi đi khai phá vùng đất mới.
Chính vì thế mà bản sắc văn hóa Việt mới có sức sống bền bỉ để chống lại sự đồng hóa của các nền văn hóa khác.Trong suốt 4000 năm nhân dân ta đã đánh bại thù trong giặc ngoài để giữ yên bờ coi và độc lập.
- Trong 2 câu thơ
'Quê hương này...
..lưu danh trong ca dao thần thoại'
Tư tưởng đất nước là của nhân dân lặp đi lặp lại 2 lần như một lời khẳng định chắc chắn về chủ thể của đất nước. Thực ra qua thời gian lịch sử mà con người có nhận ra sự thay đổi về đất nước. Thời trung đại có quan niệm đất nước là của vua chúa. Và đến trước cách mạng tháng 8, Phan Bội Châu đã đưa ra một tư tưởng tiến bộ gắn đất nước với nhân dân 'Dân là dân nước, nước là nước dân'. Đến thời kỳ hiện đại người ta thấy rõ sức mạnh của nhân dân nên say sưa ca ngợi tư tưởng 'Đất nước là của nhân dân'. Đây là 1 chân lý. Bởi 1 triều đại có huy hoàng đến đâu rồi cũng có lúc lụi tàn nhưng đất nước của nhân dân thì mãi trường tồn với thời gian. Khi đến với Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng đó được tô đậm và nhìn nhận trên nhiều biến diễn: địa lý, lịch sử, văn hóa. Ở mỗi biến diễn, ông đều có những phát hiện mới mẻ về đất nước so với cách nhìn bấy lâu nay.
- 'Quê Hương của ca dao thần thoại'
=> Bằng cảm nhận riêng của mình, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định đất nước là của ca dao thần thoại. Ý thơ độc đáo vừa tô đậm vẻ đẹp, sự kỳ diệu của đất nước vừa là một cách nhấn mạnh đất nước là của nhân dân. Bởi lẽ những người dân vô danh ấy đã tạo ra những câu ca dao, xây dựng những câu chuyện thần thoại và gửi gắm vào đó những tư tưởng, khát vọng, quan điểm thấm đậm chất nhân văn.
- Định nghĩa đất nước là của nhân dân trên phương diện văn hóa.
'Dạy tôi...
kiên định với lòng'
=> Các bản ca dao được sưu tầm hiện đại nhưng vẫn giữ nguyên sức hấp dẫn của mình. Nguyễn Khoa Điềm không đơn thuần lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý, hình ảnh của ca dao tục ngữ quen thuộc. Tác giả đã chọn 3 câu tiêu biểu để làm nổi bật đặc điểm quan trọng trong tính cách của người Việt Nam: kiên định, say đắm trong tình yêu, luôn bền bỉ trong cuộc chiến... Đây là những truyền thống tốt đẹp, những phẩm chất đặc trưng nói lên tâm hồn người Việt Nam. Tất cả tạo nên 1 đất nước anh hùng, hiền hòa, bất khuất.
- 'Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu'
=> Nước Việt Nam có nhiều sông, mỗi dòng sông đều có 1 đặc điểm riêng về địa lý. Có những dòng sông bắt nguồn từ nước bạn láng giềng, cũng có dòng lại khởi đầu từ dãy Trường Sơn hùng vĩ... Nhưng tất cả khi chảy qua mỗi vùng miền đều góp 1 phần làm đa dạng cho nền văn hóa chung của đất nước. Một đất nước có nền văn minh lúa nước như nước ta thì cuộc sống của con người gắn bó với dòng sông mang ý nghĩa của sự sống, tình yêu thương và là đề tài bất tận của thi ca nhạc họa.
Nguồn: Sưu tầm