Phong ngứa - Mề đay | |
---|---|
Phong ngứa trên bàn chân với những sẩn mề đay nhìn thấy được. | |
Chuyên khoa | khoa da liễu, dị ứng học |
ICD-10 | L50 |
ICD-9-CM | 708 |
DiseasesDB | 13606 |
MedlinePlus | 000845 |
eMedicine | topic list |
Patient UK | Phong ngứa |
MeSH | D014581 |
Bệnh phong ngứa là thuật ngữ thông dụng để chỉ hiện tượng dị ứng gây ngứa, sưng, đỏ và mẩn da. Nhiều người gọi chứng này là mề đay do da sưng lên những vết tròn giống huy chương. Bệnh có hai loại là phong ngứa cấp và phong ngứa mãn tính. 90% trường hợp là phong ngứa cấp (dưới 6 tuần), thường tự khỏi sau 2 đến 3 tuần. Bệnh nhân mắc phong ngứa mãn tính (trên 6 tuần) thường phải chịu triệu chứng khoảng 5 năm.
Triệu chứng lâm sàng bao gồm nổi mẩn đỏ ở tay, chân, bẹn, lưng, bụng, ngực... Có thể là nổi mẩn giống như vết cắn muỗi hoặc hình thành những đốm đỏ hoặc trắng lồi lên trên da, gây ngứa mạnh. Gãi càng nhiều sẽ càng làm tăng cảm giác ngứa khó chịu.
Trong Đông y, dị ứng được xem là dạng bệnh phong sàng. Nguyên nhân chủ yếu là do các tác nhân gây dị ứng xâm nhập vào cơ thể hoặc do tác động của các yếu tố bên ngoài như thời tiết hay chất lạm dịch làm cho cơ thể bị nóng lên, ngứa ngáy và gây uất ức ở da, bắp thịt. Ngoài ra, sự chuyển hóa chức năng các cơ quan bị thiếu cân bằng, ví dụ như can, phế, vị nhiệt, tỳ thấp quá thịnh, âm huyết thiếu tước, huyết bất thường, huyết suy gây ra phong ngứa.
Theo y học phương Tây, dị ứng là kết quả của sự rối loạn miễn dịch, dẫn đến sản xuất quá mức kháng thể chống lại các chất thông thường không gây hại trong môi trường.
Ở châu Âu, hằng năm có hơn dưới 10 triệu người mắc bệnh này.
Các loại phong ngứa
Vì các thuốc giải phóng histamin
Các salicylat là nhóm phổ biến nhất và bệnh nhân mắc mề đay mãn tính nên được khuyên dùng paracetamol hơn là aspirin khi cần thuốc giảm đau. Codein, morphin và indomethacin cũng giải phóng histamin nên cần tránh sử dụng.
Vì ăn thức ăn có chất phụ gia
Hai loại phụ gia thực phẩm được biết đến là nguyên nhân gây mề đay bao gồm nhóm tartrazin trong các chất nhuộm, thường có mặt trong các đồ uống và nước ngọt có màu vàng và màu cam, và các bezoat được sử dụng rộng rãi như các chất bảo quản.
Vì tiếp xúc
Các tổn thương chỉ xuất hiện ở những vị trí tiếp xúc trực tiếp, ví dụ như tiếp xúc với lông chó hoặc nước bọt của chó, hoặc sau khi tiếp xúc với các thực phẩm có chứa protein. Dạng mề đay này phổ biến ở những người có di truyền dị ứng.
Vì lý do vật lý
Ở một nhóm nhỏ bệnh nhân, áp lực, nóng, lạnh và ánh sáng có thể gây ra các dạng mề đay.
Bệnh phù ngoại sinh di truyền
Đây là một căn bệnh hiếm gặp do di truyền bởi gen trội trên nhiễm sắc thể thường. Thiếu hụt sinh hóa cơ bản trong con đường bổ thể. Chất ức chế enzyme C1 esterase bị thiếu ở những người bệnh gây ra phù lớn và nguy hiểm. Họ cũng có thể biểu hiện như một cấp cứu ngoại khoa cấp tính do phù đột ngột ở phần ruột non dẫn đến đau và tắc ruột cấp.
Liên quan đến các vấn đề nội tiết
Đây là một nhóm bệnh hỗn hợp. Bệnh nhân bị nhiễm ký sinh trùng có xu hướng phát triển mề đay, cũng như những người bị nhiễm trùng mạn tính ở các vị trí như xoang mũi và đường tiết niệu cũng có nguy cơ bị mề đay. Bệnh nhân bị lupus ban đỏ, nhiễm độc tuyến giáp, u lympho cũng có dấu hiệu mề đay.
Nguyên nhân không rõ hoặc yếu tố gây bệnh không được xác định
Đến nay, đây là nhóm bệnh nhân lớn nhất. Các tổn thương mề đay xung quanh miệng là tình trạng cấp cứu, cần chú ý đến các dấu hiệu của nghẹt thở. Có thể cần phải tiêm adrenalin dưới da.
Chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán không dễ và người bệnh thường không đi khám cho đến khi họ đã thử điều trị bằng một số loại thuốc tại nhà mà không cải thiện. Phải xác định xem những bệnh nhân này có nên dùng thuốc giải phóng histamin hay không.
Các xét nghiệm trong mề đay có thể mất nhiều thời gian, tốn kém, và đôi khi không mang lại kết quả. Vì bệnh phổ biến, nên chỉ nên làm xét nghiệm cho những bệnh nhân trải qua các đợt tái phát trong khoảng 6 - 9 tháng hoặc lâu hơn mà không có cải thiện khi dùng liệu pháp kháng histamin toàn thân. Nên thông báo với bệnh nhân rằng các xét nghiệm ít khi cho thấy nguyên nhân của mề đay và có thể sẽ tự khỏi. Thu thập lịch sử bệnh kỹ lưỡng sẽ giúp xác định các trường hợp ít phổ biến của mề đay vật lý và có thể chỉ ra nguyên nhân là phụ gia thực phẩm. Phần lớn các trường hợp thử nghiệm đều cho kết quả âm tính và cần điều trị triệu chứng.
Điều trị mề đay cấp tính đôi khi cần phải tiêm adrenalin dưới da như biện pháp cứu mạng. Đối với các trường hợp mạn tính, điều trị căn bản là các thuốc kháng histamin H1 toàn thân và thường cần thử nghiệm một số loại thuốc trước khi tìm ra loại thuốc vừa giảm triệu chứng vừa có tác dụng phụ nhỏ nhất. Các thuốc phổ biến hiện nay là các kháng histamin không gây buồn ngủ như cetirizine (Zirtek), loratadine (Clarytin), terfenadine (Triludan), và astemizole (Hismanal). Tất cả các thuốc này đều không gây buồn ngủ mạnh. Vì có một số bằng chứng cho thấy việc sử dụng thêm chất ức chế H2 có thể bổ sung tác dụng phụ của chất ức chế H1, nên trong các trường hợp mề đay nặng và dai dẳng, nên xem xét sử dụng thuốc cimetidine với liều phù hợp. Steroid dùng tại chỗ có tác dụng trung bình có thể hữu ích trong việc làm giảm triệu chứng của các tổn thương đã hình thành.
Đối với các trường hợp mề đay kéo dài lâu hơn, cân nhắc đến việc áp dụng chế độ ăn riêng, khuyến cáo bệnh nhân tránh thực phẩm và đồ uống có chứa tartrazine và benzoate. Điều trị bằng chế độ ăn đặc biệt này cần phải được giám sát chặt chẽ bởi bác sĩ dinh dưỡng, đặc biệt khi các xét nghiệm kích thích cho thấy dương tính với các loại thực phẩm nghi ngờ, và điều này là một phần của kế hoạch điều trị.
Corticosteroid toàn thân không thích hợp cho mề đay mạn tính, nhưng đối với mề đay cấp tính và lan rộng có thể cần một liệu trình ngắn từ 5 đến 7 ngày.