
Photpholipid là một dạng lipid và là thành phần chính của tất cả các màng tế bào. Chúng có khả năng hình thành lớp kép lipid nhờ vào tính lưỡng cực của chúng. Cấu trúc của phân tử photpholipid bao gồm một phân tử glycerol liên kết với hai phân tử axit béo và một nhóm photphat, thường gọi là 'đuôi kỵ nước', và một 'đầu ưa nước' cấu tạo từ một nhóm phosphate. Hai phần này được kết nối qua một phân tử glycerol. Các nhóm phosphate có thể được điều chỉnh bởi các phân tử hữu cơ đơn giản như choline, ethanolamin hoặc serine.
Photpholipid đầu tiên được phát hiện vào năm 1847 trong các mô sinh học dưới dạng lecithin, hay còn gọi là phosphatidylcholine, từ lòng đỏ trứng gà bởi nhà hóa học và dược sĩ người Pháp, Theodore Nicolas Gobley. Màng sinh học của sinh vật nhân thực cũng chứa các thành phần lipid khác như sterol, xen kẽ với các photpholipid, và cùng nhau chúng cung cấp tính động của màng cũng như độ bền cơ học. Photpholipid tinh khiết cũng được sản xuất thương mại và có tiềm năng ứng dụng trong công nghệ nano và khoa học vật liệu.
Tính chất lưỡng cực
Chất lưỡng cực (từ tiếng Hy Lạp αμφις, amphis: cả hai và φιλíα, philia: tình yêu, tình bạn) là một thuật ngữ mô tả hợp chất hóa học có cả tính chất ưa nước (phân cực) và ưa mỡ (kị nước, không phân cực). Đầu của phân tử phospholipid chứa nhóm phosphat tích điện âm và glycerol, vì vậy nó ưa nước. Các đuôi của phospholipid thường bao gồm hai chuỗi axit béo dài, kỵ nước và tránh tiếp xúc với nước. Khi đặt trong dung dịch nước, phospholipid sẽ tự điều chỉnh nhờ vào các tương tác kỵ nước, dẫn đến việc các đuôi axit béo tập trung lại để giảm tiếp xúc với các phân tử nước. Những đặc điểm này cho phép phospholipid đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lớp kép phospholipid. Trong các hệ thống sinh học, phospholipid thường kết hợp với các phân tử khác (như protein, glycolipid, sterol) để tạo thành lớp kép như trong màng tế bào. Các lớp kép lipid hình thành khi các đuôi kỵ nước quay vào trong, còn các đầu ưa nước quay ra ngoài tiếp xúc với nước.