Phù sa (hay Illuvi) là các loại vật liệu đất cát hoặc cặn nhỏ, dạng hạt mịn hoặc tan chảy, được cuốn trôi theo dòng nước hoặc lắng đọng tại các bờ sông và bãi bồi.
Nguồn gốc vật liệu phù sa là kết quả của sự phong hóa các loại đất đá, bị phân mảnh và được nước mưa đưa đi theo các dòng nước. Phù sa là vật liệu xây dựng các hình thái địa hình bồi tụ tại vùng đồng bằng hạ lưu sông.
Phân loại phù sa có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau:
- Theo hình thức vận chuyển, phù sa được chia thành hai loại chính là phù sa đáy và phù sa lơ lửng.
- Theo vị trí bồi tích, phù sa có thể là phù sa trong lòng sông hoặc phù sa ngoài lòng sông. Phù sa ngoài lòng sông có thể chia thành:
- Phù sa tại bãi bồi
- Phù sa tại hồ móng ngựa.
Phù sa cổ là những bồi tích cổ trong lòng sông. Phù sa trong lòng sông chủ yếu là phù sa đáy, trong khi phù sa ngoài lòng sông chủ yếu là phù sa lơ lửng.
Sự dịch chuyển của phù sa là một trong những quy trình cơ bản của sông ngòi.
Dọc theo chiều dài dòng nước, dù là lớn hay nhỏ, phù sa đều có thể được nâng lên và đưa đi bởi lưu lượng nước. Phù sa thường bị cuốn theo dòng khi tốc độ nước cao. Khi nước chậm lại, phù sa thường lắng xuống đáy dòng. Dần dần, phù sa tích tụ lại đủ lớn để hình thành một bãi nguyên.
Phù sa do sông lớn mang đi nhiều lượng lớn, thường tạo thành màu nước sông như sông Hồng ở Việt Nam có màu nước nâu sành sệ; sông Mississippi ở Bắc Mỹ, có biệt danh là 'Big Muddy' (nghĩa là sông Bùn lớn); và sông Hoàng Hà ở Trung Quốc có nước màu vàng lấp lánh. Sông Mississippi mỗi năm đổ ra biển 406 triệu tấn phù sa, trong khi sông Hoàng Hà đưa ra một lượng phù sa lớn hơn nữa: 796 triệu tấn.
Phù sa thường chứa nhiều khoáng chất quý như vàng và bạch kim cùng với các loại đá quý khác.
Về mặt nông nghiệp, đất phù sa được biết đến với màu mỡ. Sông Nin trải qua hàng ngàn năm lịch sử kể từ thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên đã cung cấp mùa màng lúa thóc mà không cần sử dụng thêm phân bón.
Không có nội dung
- Chất lượng
- Quy trình sông nội địa
- Đất phù sa (Fluvisols)
Liên kết bên ngoài
Các trầm tích |
---|