Bài viết đề xuất một số biện pháp để người học khắc phục tình trạng lo lắng trong quá trình học ngoại ngữ (foreign language anxiety)Việc học một ngôn ngữ khác với tiếng mẹ đẻ có thể mang lại những lợi ích và bất cập nhất định cho người học. Một trong số những điểm bất lợi, cho dù người học ở trình độ vỡ lòng hay đã thành thạo trong sử dụng ngôn ngữ chính là hiện tượng Foreign Language Anxiety (FLA) (Lo lắng trong học tập ngoại ngữ). Hiện tượng này không phân biệt đối tượng, chủ yếu xảy ra trong không gian lớp học và có thể gây những khó khăn nhất định cho người học như việc cảm thấy khó khăn khi phát biểu trong lớp học ngoại ngữ. Bài viết dưới đây sẽ tìm hiểu sâu hơn về hiện tượng này và gợi ý một số giải pháp để khắc phục.
Key takeaways |
---|
Khái niệm, nguyên nhân và triệu chứng của Foreign Language Anxiety (Lo lắng trong học tập ngoại ngữ) Một số các giải pháp để khắc phục tình trạng: Thay đổi quan niệm; nhận diện và đối diện nỗi sợ; viết về nỗi sợ; luyện tập; chia sẻ với giáo viên, bạn bè, gia đình; và học cách chấp nhận và nhận định lỗi sai nhẹ nhàng hơn.
|
Sợ Học Ngoại Ngữ là gì?
Theo MacIntyre và đồng nghiệp (1998), Lo Lắng Về Ngôn Ngữ Nước Ngoài (FLA) là một cảm giác căng thẳng và phản ứng tiêu cực phát sinh khi học hoặc sử dụng ngôn ngữ thứ hai. Năm 1991, MacIntyre và Gardner (1991) đã chỉ ra rằng FLA là một loại lo lắng cụ thể mà chỉ xuất hiện trong lớp học ngoại ngữ. Hậu quả của việc lo lắng trong lớp học ngôn ngữ có thể gây tổn thương tâm lý cho người học. Bên cạnh đó, Worde (1998) cũng thống kê rằng từ 30% đến 50% học sinh trong khảo sát đã báo cáo trải qua các mức độ lo lắng khác nhau trong quá trình học. Thực tế, FLA có thể xảy ra với bất kỳ ai, ngay cả những người có thành tích tốt trong lớp học các môn khác, vẫn có thể gặp khó khăn khi học ngôn ngữ thứ hai. Horowitz và đồng nghiệp (1986) tin rằng học sinh/sinh viên có thể bỏ học ngoại ngữ để giảm bớt lo lắng của họ.
Nhìn chung, FLA là 1 hiện tượng tâm lý khi người học gặp phải những cảm giác lo lắng và tiêu cực trong lớp học ngoại ngữ và nó có thể xảy ra với bất kỳ ai trong quá trình học tập.
Lý do tại sao gặp phải Lo Lắng Về Ngôn Ngữ Nước Ngoài
Horowitz và đồng nghiệp vào năm 1986 đã thống kê rằng có 3 nguyên nhân chính của hiện tượng tâm lý này, bao gồm: sợ giao tiếp, sợ bị đánh giá tiêu cực và lo lắng khi kiểm tra. Trong khi đó, Price (1991) tin rằng hiện tượng tâm lý này xảy ra do sự khó khăn thường gặp trong các lớp học ngoại ngữ, nhận thức của bản thân về năng khiếu ngôn ngữ, các yếu tố cá nhân như là một người cầu toàn và trải nghiệm về một lớp học luôn trong tình trạng căng thẳng kéo dài.
Theo Young (1991, 1994), việc căng thẳng lo âu trong khi học ngoại ngữ bắt nguồn từ các yếu tố như người học, người dạy/ người hướng dẫn thực hành và lo lắng cá nhân (hoặc lo lắng giữa các cá nhân), niềm tin của người học về việc học ngôn ngữ như việc người học tin rằng trẻ em dễ tiếp thu ngôn ngữ hơn người trưởng thành hoặc là sau 2 năm học tập thì một người nên có khả năng giao tiếp trôi chảy, niềm tin của người hướng dẫn về việc học ngôn ngữ, tương tác hoặc mối quan hệ giữa người dạy - người học, thủ tục/quy tắc trong lớp học, kiểm tra ngôn ngữ, sự cạnh tranh trong môi trường lớp học hay cảm xúc bất ổn trong quá trình học tập. Thật ra, tất cả các điều kể trên đều có mối liên hệ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau.
Nhìn chung, có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của hiện tượng tâm lý này, tuy nhiên, người học thường gặp một số các tình trạng cụ thể như sau.
Các dấu hiệu
Trích dẫn từ Young (1991, trang 430), lo lắng trong quá trình học ngoại ngữ có thể dẫn đến việc người học “không thể phát ra âm thanh chính xác, mất khả năng tái tạo ngữ điệu và nhịp điệu của ngôn ngữ, quên các từ hoặc cụm từ vừa học, hoặc đơn giản là từ chối/giữ im lặng khi được mời phát biểu.” Ngoài ra, một số biểu hiện tiêu cực có thể gây ảnh hưởng tâm lý cho người học như sợ hãi, lo lắng, khó tập trung, tim đập nhanh, đổ mồ hôi, căng thẳng, ngại nói to, lảng tránh, hồi hộp, hay quên, tức giận (Kitano, 2001). Một số vấn đề liên quan cũng được ghi chép lại như gặp khó khăn trong việc tập trung, né tránh, hay quên và có thể là cảm xúc giận dữ trong quá trình học tập.
Các triệu chứng kể trên có thể thay đổi tuỳ theo cơ thể và tâm lý của người học nhưng nhìn chung, đây là những triệu chứng phổ biến nhất. Các triệu chứng tuỳ vào mức độ nặng nhẹ sẽ có mức độ ảnh hưởng khác nhau lên người học, nếu trầm trọng thì có khả năng gây ra chướng ngại tâm lý hoặc sự né tránh cùng với cảm xúc tiêu cực trong việc học ngoại ngữ.
Phương pháp khắc phục
Để vượt qua triệu chứng tâm lý này, người học cần nỗ lực và luyện tập thường xuyên. Dưới đây là một chơi xổ số xuất giúp người học một phần nào đó cải thiện vấn đề.
Thay đổi các quan điểm sai lầm về bản thân
Theo thống kê từ Horowitz (1986), ông nhận thấy rằng 40% sinh viên có niềm tin rằng họ phải thông thạo ngoại ngữ sau 2 năm đào tạo. Quan điểm thứ 2 chính là việc có một phương pháp học ngoại ngữ hoàn hảo và tối ưu mà không tốn nhiều công sức. Cuối cùng là việc học ngôn ngữ là dễ dàng đối với trẻ em trong khi người lớn lại gặp nhiều khó khăn. Theo tác giả, đây là những quan điểm sai lầm mà người học ngoại ngữ thường mắc phải. Trong trường hợp người học bị ám ảnh quá mức đối với những quan điểm này thì họ thường dễ rơi vào hiện tượng tâm lý lo lắng trong học tập ngoại ngữ. Vậy thì bước đầu tiên để khắc phục việc này chính là thay đổi lối tư duy và quan điểm của cá nhân về học tập ngoại ngữ.
Phát hiện và đối mặt với nỗi sợ
Điều quan trọng ở đây là người học có thể nhận diện nỗi sợ (có thể dựa vào các biểu hiện được nêu trên hoặc có thể tham vấn bác sĩ tâm lý nếu cảm thấy các triệu chứng đang xuất hiện ngày càng nhiều và có thể gây cản trở trong hoạt động và cuộc sống hằng ngày). Sau đó, người học cần học cách nhìn thẳng vào nỗi sợ. Nói cách khác, người học được khuyên nên tiếp cận các tình huống lo lắng một cách thực tế thay vì trốn tránh nó.
Tự viết về nỗi sợ, tự phản chiếu:
Ngoài việc nhận diện và đối diện với nỗi lo âu trong học tập ngoại ngữ, viết về nỗi sợ hoặc self-reflection (tự phản ánh bản thân) cũng là một gợi ý để khắc phục tình trạng này. Theo Young (1991), viết nhật ký cung cấp cho sinh viên một lối thoát về cảm xúc và nỗi sợ hãi; giúp họ nhận thức và lên kế hoạch tương lai của bản thân.
Thực hành
Người học cũng được khuyến khích luyện tập thường xuyên với ngoại ngữ để khắc phục nỗi sợ. Sau đây là 2 hướng luyện tập được giới thiệu với người học.
Self-talk/ Shadowing: người học luyện tập với ngoại ngữ đó một mình bằng cách tự nói chuyện với bản thân hoặc xem cái đoạn phim ngắn trên mạng và lặp lại y chang như các nhân vật đó, bao gồm cả thái độ, thần thái và ngữ điệu.
Thực chất, việc luyện tập này sẽ giúp người học phá bỏ rào cản tâm lý đối với ngôn ngữ, làm cho người học cảm thấy ngôn ngữ thật ra rất gần gũi với họ và không hề khó khăn như họ đã tưởng trước đó. Cho dù thực hiện theo cách nào thì điều kiện tiên quyết là tâm thế của người học khi tiếp cận với ngôn ngữ mới phải thoải mái và không mang tính ràng buộc quá nhiều. Trong quá trình luyện tập, không tránh khỏi những lúc người học cảm thấy khó khăn hay nản lòng, lúc này cần áp dụng đến biện pháp self-motivate (tự cổ động bản thân). Người học có thể tự nhủ với bản thân là “hãy thoải mái lên” hay “tôi sẽ làm được” để phần nào tạo động lực cho việc luyện tập.
Nói về thách thức mà bản thân đang đối mặt với giáo viên, bạn bè, gia đình
Người học không cần cảm thấy khó xử hay xấu hổ khi gặp vấn đề này, thay vào đó, họ nên mạnh dạn hơn trong việc tìm kiếm sự chia sẻ từ thầy cô, bạn bè và cả gia đình. Điều quan trọng là người học không cần cảm thấy có lỗi vì bản thân họ gặp phải vấn đề này, họ nên biết được rằng họ không hề cô đơn một mình khi đối mặt với hiện tượng tâm lý này.
Chấp nhận và nhận thức những sai sót của bản thân một cách nhẹ nhàng
Một vài học viên gặp phải vấn đề tâm lý này vì họ đặt áp lực quá lớn lên bản thân. Trong quá trình học một ngôn ngữ mới khác với tiếng mẹ đẻ, việc mắc phải sai lầm là điều không thể tránh khỏi. Học viên cần học cách chấp nhận rằng sai lầm là cách để họ trau dồi và phát triển. Hơn nữa, họ cũng nên suy nghĩ tích cực hơn về những lỗi mà mình phạm phải và tiếp nhận chúng một cách nhẹ nhàng hơn, tránh tạo ra áp lực không cần thiết lên bản thân.
Bài tập Thực Hành
Lo Lắng Về Ngôn Ngữ Nước Ngoài (FLA) là một hiện tượng tâm lý khi người học gặp phải các (1) ____________________ trong lớp học ngoại ngữ và có thể xảy ra với bất kỳ ai trong quá trình học tập. Nguyên nhân gây ra hiện tượng tâm lý này có thể bắt nguồn từ (2) ____________________ (nhận thức của bản thân, sợ giao tiếp, sợ bị đánh giá tiêu cực), người giáo dục hoặc từ chính môi trường lớp học (nguyên tắc, quy định, kiểm tra). Ngoài ra, (3) ____________________ của người học về việc học ngôn ngữ (sau 2 năm thì có thể giao tiếp trôi chảy, người trưởng thành dễ gặp khó khăn trong việc học ngoại ngữ hơn là trẻ em) cũng là một nguyên nhân gây nên lo lắng trong học tập ngoại ngữ. (4) _____________ của việc này chính là người học gặp khó khăn trong lớp học ngoại ngữ như không thể phát âm chính xác, hạn chế trong (5) _____________, quên kiến thức, né tránh và luôn giữ im lặng trong lớp học. Bên cạnh đó, một số biểu hiện tiêu cực có thể gây ảnh hưởng tâm lý cho người học như sợ hãi, lo lắng, khó (6) _____________, tim đập nhanh, đổ mồ hôi, căng thẳng, ngại nói to, lảng tránh, hồi hộp, hay quên và tức giận. Tuy nhiên, hiện tượng tâm lý này có thể được khắc phục bằng một số các giải pháp sau đây: Thay đổi quan niệm sai lầm; (7) _____________; tự viết về nỗi sợ; thực hành; chia sẻ với giáo viên, bạn bè, gia đình; và học cách chấp nhận và nhận định lỗi sai nhẹ nhàng hơn.
Giải đáp:
cảm giác bận tâm và tiêu cực
bản thân của học viên
niềm tin
kết quả
giao tiếp
sự tập trung
nhận biết và đối mặt với nỗi sợ
Kết luận
Hiện tượng Lo lắng khi học ngoại ngữ có thể xảy ra với mọi đối tượng, không phân biệt tuổi tác hoặc khả năng ngôn ngữ. Vì vậy, người học ngoại ngữ cần chú ý đến các yếu tố ngoại cảnh như môi trường học tập, đặc biệt là cảm giác sợ phạm sai lầm khi sử dụng ngôn ngữ ngoại quốc. Họ cần khắc phục những vấn đề này, đặc biệt là những yếu tố tính cách cá nhân. Qua bài viết này, tác giả mong muốn độc giả hiểu rõ hơn về bản chất của hiện tượng phổ biến trong quá trình học ngoại ngữ. Ngoài ra, những người đang gặp phải tình trạng này có thể áp dụng một số giải pháp để khắc phục vấn đề đó.
Tham Khảo
Horwitz, E. K., Horwitz, M. B., & Cope, J. (1986). Lo lắng trong Lớp học Ngoại ngữ. Tạp chí Ngôn Ngữ Hiện Đại, 70(2), 125–132. https://doi.org/10.2307/327317
Horwitz, EK. (1986). Bằng chứng sơ bộ cho tính tin cậy và tính hợp lệ của một thang điểm lo lắng khi học ngoại ngữ. TESOL Quarterly, 20, 559–562. https://doi.org/10.2307/3586302.
Kitano, K. (2001). Lo lắng trong Lớp học Tiếng Nhật ở Trường Đại Học. Tạp chí Ngôn Ngữ Hiện Đại, 85(4), 549–566. https://doi.org/10.1111/0026-7902.00125
MacIntyre, P.D, & Gardner, RC. (1991). Lo lắng về ngôn ngữ: mối quan hệ của nó với những lo lắng khác và với quá trình xử lý trong ngôn ngữ bản địa và thứ hai. Học Ngôn Ngữ, 41, 513–534. https://doi.org/10.1111/j.1467-1770.1991.tb00691.x.
MacIntyre, P. D., Clément, R., Dornyei, Z., & Noels, K. A. (1998). Khái niệm Về Ý Thức Truyền Tin trong L2: Một Mô Hình Tình Huống về Sự Tự Tin và Gắn Bó trong L2. Tạp chí Ngôn Ngữ Hiện Đại, 82(4), 545–562. https://doi.org/10.1111/j.1540-4781.1998.tb05543.x
Price, ML. (1991). Kinh nghiệm chủ quan của lo lắng khi học ngôn ngữ ngoại: cuộc phỏng vấn với các sinh viên lo lắng cao. Trong EK Horwitz, DJ Young (Eds.), Lo lắng khi học ngôn ngữ: Từ lý thuyết và nghiên cứu đến những hàm ý trong lớp học (pp. 101–108). Englewood Cliff: Prentice Hall.
Worde, R. (1998). Một cuộc điều tra về quan điểm của sinh viên về lo lắng khi học ngoại ngữ. Luận án tiến sĩ chưa công bố, Đại học George Mason, Fairfax, Virginia.
Young, DJ (1994). Hướng mới trong nghiên cứu về lo lắng khi học ngôn ngữ. Trong CA Klee (Ed.), Những khuôn mặt trong đám đông: Người học cá nhân trong các khóa học nhiều phần, (pp. 3–46). Boston: Heinle & Heinle.
Young, DJ. (1991). Establishing a classroom environment with minimal anxiety: what insights does language anxiety research offer? The Modern Language Journal, 75, 426–439. https://doi.org/10.1111/j.1540-4781.1991.tb05378.x.