Phương pháp Đường găng (hay Phương pháp Đường găng CPM hoặc Sơ đồ mạng CPM) là một kỹ thuật phân tích mạng tiến độ quan trọng trong quản lý dự án, được biết đến với tên tiếng Anh là Critical Path Method (CPM). Phương pháp này sử dụng sơ đồ mạng đồ thị có hướng để tổ chức các hoạt động công việc trong dự án, tập trung vào các chuỗi công việc quan trọng nhất để quản lý tiến độ dự án hiệu quả.
Lịch sử của phương pháp Đường găng
Phương pháp CPM, phát triển bởi các chuyên gia Mỹ vào năm 1959 gần như đồng thời với phương pháp PERT (1958), ban đầu được kết hợp với sơ đồ mạng trên mũi tên (phương pháp ADM) và thường được đồng nhất với phương pháp ADM.
Người Mỹ ngay sau đó đã kết hợp phương pháp Đường găng CPM với sơ đồ mạng PERT (Kỹ thuật ước lượng và đánh giá chương trình) và lý thuyết xác suất thống kê để ước lượng thời gian công việc trong các dự án với thời gian không xác định trước.
Cùng thời điểm với người Mỹ, người Pháp ở bên kia Đại Tây Dương đã phát triển kỹ thuật lập tiến độ mới theo phương pháp đường găng dựa trên lý thuyết đồ thị, được gọi là sơ đồ mạng MPM. Khác với sơ đồ mạng CPM của Mỹ, sơ đồ MPM sử dụng nút để thể hiện công việc và mũi tên chỉ mối quan hệ tuần tự giữa các công việc.
Giáo sư Hoàng Tụy là người đầu tiên mang phương pháp Đường găng và lý thuyết sơ đồ mạng vào Việt Nam (khoảng năm 1961-1966), ban đầu dưới dạng sơ đồ mạng PERT. Do đó, sơ đồ mạng ở Việt Nam thường được gọi là sơ đồ PERT, tên gọi này vẫn còn được sử dụng đến ngày nay.
Sau đó, người Mỹ đã kết hợp sơ đồ mạng nút MPM của người Pháp và cải tiến nó thành sơ đồ mạng PDM, thể hiện các mối quan hệ công việc theo logic thực tế như tuần tự và song song. Sơ đồ mạng PDM thay thế cho cả hai dạng sơ đồ mũi tên ADM và sơ đồ nút MPM, và được đưa vào phần mềm quản lý dự án Microsoft Project.
Các dạng thể hiện bằng sơ đồ mạng trong phương pháp Đường găng bao gồm nhiều cách khác nhau.
Có hai dạng sơ đồ mạng CPM: dạng 'công việc trên nút' (các đỉnh thể hiện công việc và các cung nối đỉnh thể hiện mối quan hệ) và dạng 'công việc trên mũi tên' (các đỉnh thể hiện mối quan hệ và các cung nối đỉnh đại diện cho công việc).
- Có hai loại sơ đồ mạng trong phương pháp Đường găng: dạng sơ đồ mạng mũi tên ('công việc trên mũi tên', AoA, Activity on arrow) với sơ đồ ADM và dạng sơ đồ mạng nút ('công việc trên nút', AoN, Activity on node) với các sơ đồ như MPM và PDM.
Kỹ thuật cơ bản
Để áp dụng phương pháp Đường găng CPM, cần xây dựng mô hình dự án với các yếu tố sau:
- • Một danh sách đầy đủ các công việc cần thực hiện, được phân loại theo cấu trúc hợp lý trong cơ cấu phân chia công việc (WBS).
• Thời gian cần thiết để hoàn thành mỗi công việc.
• Các mối quan hệ thời gian giữa các công việc, thể hiện cấu trúc logic của cơ cấu phân chia công việc.
Đường găng
Đường găng (critical path) là chuỗi các công việc từ thời điểm bắt đầu dự án đến thời điểm kết thúc, có tổng thời gian thực hiện dài nhất. Đường găng bao gồm các công việc không có dự trữ thời gian (critical tasks), nghĩa là bất kỳ sự trì hoãn nào sẽ làm kéo dài toàn bộ dự án.
Thời gian của đường găng trên trục thời gian chính là thời gian tối thiểu để hoàn thành dự án theo kế hoạch. Đường găng nối các công việc có dự trữ thời gian bằng 0, do đó tổng dự trữ thời gian của đường găng cũng bằng 0. Một dự án có thể có một hoặc nhiều đường găng.
Dự trữ thời gian công việc
Dự trữ thời gian công việc (float) là khoảng thời gian dư thừa giữa thời điểm bắt đầu sớm nhất và thời điểm kết thúc muộn nhất của công việc. Khoảng thời gian này cho phép công việc có thể trì hoãn bắt đầu hoặc kéo dài mà không ảnh hưởng đến thời gian kết thúc của toàn bộ dự án. Dự trữ cho phép công việc 'trôi nổi' trong khoảng thời gian này.
Các công việc trên đường găng (critical path) không có khoảng dự trữ thời gian và phải hoàn thành đúng thời hạn. Chúng bị cố định và không thể thay đổi thời gian thực hiện. Do đó, các công việc này cần được quản lý chặt chẽ về mặt thời gian.
CPM là phương pháp tổ chức và thực hiện công việc.
Phương pháp Đường găng cùng với các phương pháp như tổ chức theo dây chuyền, tổ chức tuần tự, tổ chức theo tổ đội lao động chuyên nghiệp (Line of Balance-LoB), và tổ chức thực hiện công việc song song đều là những phương pháp để tổ chức dự án và sản xuất.
Phương pháp Đường găng tổ chức công việc theo các gói công việc trọn gói (Work package) và không tập trung vào biên chế lao động cố định mà vào sự căng thẳng và khẩn trương của công việc trong dự án. Phương pháp này áp dụng cho nhiều loại dự án, bao gồm cả xây dựng.
Khác với các phương pháp tổ chức theo tổ đội lao động chuyên nghiệp (Line of Balance-LoB) và dây chuyền, phương pháp Đường găng cho phép linh hoạt thay đổi cả thời gian thực hiện và các thời điểm bắt đầu, kết thúc của công việc.
Trong phương pháp Đường găng, thời gian thực hiện công việc trên mỗi phân đoạn có thể thay đổi tùy theo số lượng lao động chuyên nghiệp. Công việc có thể được phân chia thành các phân đoạn khác nhau với khối lượng công việc đồng nhất nhưng thời gian thực hiện khác nhau. Điều này không thể thực hiện trong các phương pháp tổ chức theo tổ đội chuyên nghiệp hay dây chuyền.
Với phương pháp Đường găng, thời điểm bắt đầu và kết thúc của các công việc găng (trên đường găng) là cố định. Tuy nhiên, các công việc không nằm trên đường găng có thể thay đổi thời điểm bắt đầu và kết thúc trong khoảng thời gian dự trữ toàn phần.
Ngay cả các công việc găng cũng có thể trở thành công việc không găng và ngược lại, nếu thời gian thực hiện được thay đổi. Thời điểm bắt đầu và kết thúc của công việc găng chỉ được coi là tương đối cố định trong phương pháp Đường găng.
Chú thích
- • Bách khoa toàn thư Việt Nam bản điện tử.
• Lý thuyết Tối ưu và Đồ thị, Doãn Tam Hòe, nhà xuất bản Giáo dục.
• Hướng dẫn về kiến thức cốt lõi trong Quản lý dự án.
• Total Construction Project Management của George J. Ritz, nhà xuất bản McGraw-Hill, Inc. ISBN 0-07-113630-4.
• Các phương pháp sơ đồ mạng trong xây dựng của Trịnh Quốc Thắng, nhà xuất bản Xây dựng.
• Quản lý dự án bằng sơ đồ mạng của Lê Văn Kiểm và Ngô Quang Tường.
• Tổ chức xây dựng 1: Lập kế hoạch, tổ chức và chỉ đạo thi công của Nguyễn Đình Thám và Nguyễn Ngọc Thanh.
• Ứng dụng MS Project 2003 trong quản lý dự án xây dựng của Trần Hành, Nguyễn Khánh Hùng, Nguyễn Duy Phích.