Chi Pơ mu | |
---|---|
Fokienia hodginsii | |
Tình trạng bảo tồn | |
Sắp nguy cấp (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
Ngành (divisio) | Pinophyta |
Lớp (class) | Pinopsida
|
Bộ (ordo) | Pinales |
Họ (familia) | Cupressaceae |
Phân họ (subfamilia) | Cupressoideae |
Chi (genus) | Fokienia A.Henry & H.H.Thomas |
Loài (species) | F. hodginsii |
Danh pháp hai phần | |
Fokienia hodginsii (Dunn) A.Henry & H.H.Thomas | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Pơ mướ (danh pháp khoa học: Fokienia) là một chi trong họ Hoàng đàn (Cupressaceae). Là loài cây trung gian giữa hai chi Chamaecyparis và Calocedrus, nhưng về mặt di truyền học, chi Fokienia gần gũi hơn với chi đầu tiên. Chi này chỉ có một loài còn sống là cây pơ mướ (Fokienia hodginsii (Dunn) A.Henry & H.H.Thomas) được gọi trong tiếng Anh là Fujian cypress (tạm dịch là bách Phúc Kiến), và một loài chỉ còn ở dạng hóa thạch là Fokienia ravenscragensis.
Fokienia hodginsii có nguồn gốc từ miền Đông Nam Trung Quốc (các tỉnh Chiết Giang, Quý Châu, Vân Nam và Phúc Kiến) đến miền Bắc Việt Nam (các tỉnh Bắc Giang, Hà Giang, Hà Tĩnh, Hòa Bình, Sơn La, Nghệ An, Lào Cai, Lai Châu, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ), phía tây miền Trung Việt Nam (các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng), và kéo dài về phía Tây tới miền Bắc Lào. Tên khoa học của loài thực vật này bắt nguồn từ tên gọi La tinh hóa cũ của tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, nơi mà Hodgins thu thập năm 1908.
Đặc điểm
Pơ mướ là loài cây thân gỗ lá mãng cầu, cao khoảng 25–30 m. Cây có vỏ màu nâu xám có thể bong tróc khi còn non. Ở cây già, vỏ có những vết nứt dọc, mang mùi thơm. Lá được sắp xếp thành các cụm phẳng trên các nhánh cây, với các nhánh nhỏ trên một mặt phẳng. Lá trên cây trưởng thành xếp thành các cặp chéo đôi, không đều về khoảng cách, tạo ra các vòng xoắn 4 trên cùng một mức; chúng dài khoảng 2–5 mm, mặt trên màu xanh đậm với các dải trắng bên dưới. Lá bên có dạng trứng bị nén, lá mặt ngược có dạng hình tam giác. Trên cây non, lá lớn hơn, dài tới 8–10 mm và rộng 6 mm.
Các nụ đực hình nón hay trụ, dài khoảng 2,5 mm, nằm ở phía trên của chồi cây. Chúng có từ 3 đến 5 cặp vảy bắc. Các nụ cái lớn hơn nhiều, dài 15–25 mm và rộng 14–22 mm, hình cầu hoặc gần như hình cầu và chín vào năm thứ hai. Chúng có 5-8 cặp vảy bắc. Trên mỗi vảy bắc có 2 hạt có cánh, dài khoảng 4 mm, góc cạnh và đầu nhọn. Trên mặt trên và dưới có 2 chỗ phồng lớn chứa nhựa. Các cánh không đều nhau ở hai bên.
Loài cây này không thích bóng râm, thích khí hậu mát mẻ và nhiều mưa. Nó phát triển trên đất ẩm trong các vùng núi. Tại Việt Nam, nó thường mọc trên đất đá vôi hoặc đất granit từ độ cao 900 m trở lên.
Loài hóa thạch Fokienia ravenscragensis được biết đến từ thế Paleocen sớm (60-65 triệu năm trước). Loài này đã được tìm thấy ở miền tây nam Saskatchewan và các khu vực lân cận của Alberta, Canada.
Ứng dụng
Người Lào và người Dao sử dụng gỗ cây pơ mướ để làm mái nhà hoặc vách ngăn phòng. Trước đây, gỗ pơ mướ còn được dùng để làm quan tài. Tại Việt Nam, pơ mướ được coi là một loại gỗ quý với mùi thơm đặc trưng, vân gỗ đẹp và trọng lượng nặng, đặc tính chống mối mọt; do đó được sử dụng để làm các sản phẩm nghệ thuật và đồ gia dụng. Loài cây này được xếp vào danh sách nguy cấp tại Việt Nam và đã được bảo vệ từ năm 1996 theo Sách đỏ Việt Nam.
Sản phẩm từ thân cây, lá và đặc biệt là từ rễ pơ mướ, là tinh dầu được sử dụng trong ngành mỹ phẩm và y học.
Tên gọi
Pơ mướ còn có các tên gọi khác trong tiếng Việt như đinh hương, tô hạp hương, mạy vạc (ở Lào Cai), mạy long lanh (ở miền Tây Bắc và Thanh Hóa), khơ mu (Hà Tĩnh), hòng he (người Ba Na ở Gia Lai và Kon Tum).