Quán của bà Minh ẩn mình xa lối đi chính, chỉ có vài bộ bàn ghế giản dị, nhưng trong suốt 20 năm, lượng khách không ngừng gia tăng.
Quán bánh đúc 'Sôi Động' vẫn giữ vị thơm ngon, thu hút khách trong khu tập thể Hà Nội
Hà Nội thập niên 1960 – 1970 chứng kiến sự xuất hiện của vô số 'khối hộp bê tông' - những khu nhà tập thể - vẫn tồn tại đến ngày nay, là nơi sinh sống của nhiều gia đình.
Xung quanh những khu nhà đó là điểm sinh sống của nhiều hộ kinh doanh đồ ăn. Tập thể Thành Công hay Nghĩa Tân bán đủ mọi thứ như cháo sườn, cháo trai, nộm, bún… Tập thể Kim Liên nổi tiếng với món bánh đa cua trộn. Tại tập thể C2 Trung Tự, bạn có thể thưởng thức những chiếc bánh đúc nóng hổi ngon đặc trưng.

Bánh đúc có nhiều biến thể, như bánh đúc lạc chấm tương ở làng Bần và bánh đúc nóng hổi chấm mắm và thịt băm. Ngày xưa, người ta rất tỉ mỉ trong việc chuẩn bị bột bánh. Bột làm từ gạo tẻ ngon, ngâm ít nhất 10 tiếng, có nơi ngâm đến 3 ngày tới khi bóp gạo tan thành bột, sau đó đem bột ngâm với nước vôi hoặc nước tro.
Ngày nay, quy trình làm bánh đã được rút gọn đáng kể. Bột gạo được xay sẵn, ngâm trong nước và nước vôi trong khoảng nửa tiếng, sau đó xay thành bột nước để sử dụng.
Bà Minh, vượt qua tuổi 50, bán bánh đúc nóng tại sân tập thể Trung Tự từ năm 1996. Ở Hà Nội, số lượng hàng bán món ăn chỉ đếm trên đầu ngón tay vì đòi hỏi sự kiên nhẫn từ người làm. Nấu một nồi bánh đúc mất vài tiếng, lửa liu riu, khuấy đều liên tục bằng đũa để bánh không bị vón cục, khê hay cháy. Khi kéo lên, bánh mềm mại như lụa rồi chảy xuống mà không bám dính vào đũa mới được coi là đạt. Không có trường lớp nào dạy kỹ thuật này, chỉ có 'trăm hay không bằng tay quen'.
Mỗi ngày cứ 14h, vợ chồng bà Minh mang nồi bánh đúc ra sân tập thể để bán. Mùa nóng, gia đình chuẩn bị một nồi to 100 lít, mùa lạnh, cần hai nồi như vậy. Nhiều cơ sở, trường học xung quanh thường xuyên đặt đến cả trăm suất cho nhân viên và học sinh ăn.

Hồi mới khai trương, quán chỉ có một chiếc bàn gỗ và đôi ghế băng. Những năm gần đây, quán trở nên đông đúc hơn, chủ hàng bày thêm một chiếc bàn nữa để phục vụ khách. Chồng của bà Minh thường xuyên giúp đỡ trong việc múc bánh, trong khi bà chủ đảm nhiệm phần thịt băm, rắc hành khô, lá mùi, và mắm cho khách. Nước mắm luôn được pha chế vừa miệng, hiếm khi có vị khách nào than phiền về hương vị. Trên bàn luôn có sẵn vài lọ bột ớt và tiêu để khách tự thêm theo khẩu vị.
Chồng của bà Minh tay nhanh và khéo léo, chỉ cần một chiếc muôi nhôm là đủ cho một bát bánh. Bánh đúc mềm mại, xúc vào bát rồi gõ nhẹ muôi vào miệng bát, và toàn bộ bánh trượt xuống mà không bám vào đũa mới được coi là hoàn hảo. Đến đoạn gần cuối nồi, nếu có cháy, chủ quán phải sử dụng kéo để cắt từng khúc một. Nhiều người thường đợi tới khoảng 16h30 – 17h để đến quán 'cho cháu bát cháy nhé'. Bánh đúc cháy nhưng không dính, dai nhưng không cứng. Bà Minh cho biết bà cố tình quấy nhiều để phục vụ khách thích ăn.
Không có ai quy định rằng sau khi ăn bánh đúc phải ăn chè, giống như việc ăn hết bún đậu phải uống cốc trà nóng. Nhưng hầu như ai đến đây để thưởng thức bánh đúc đều gọi thêm một cốc chè. Quán có hai loại chè: đỗ xanh và đen, hạt 'đỗ tiêu' nhỏ xíu, thơm ngon và đậm đà, không bị che mất hương vị bởi nước cốt dừa hay đường.
Khách đến quán bánh đúc của bà Minh thường cảm thấy như đang trở về quê hương, ngồi ăn quà vặt ở chợ làng. Mọi thứ đều được làm tự nhiên, nấu để gia đình ăn và bán cho mọi người với tấm lòng, không chỉ là kinh doanh vì lợi nhuận.
***
Tham khảo: Cẩm nang du lịch Mytour.com
Mytour.comTháng Mười Một 19, 2018