Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ có tình yêu nước sâu sắc. Trong thời kỳ Pháp xâm lược, ông dùng tình yêu nước để truyền cảm hứng cho việc viết văn, truyền bá lý tưởng dân tộc. Ông phê phán và tôn vinh anh hùng dũng cảm, ngợi ca cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là cuộc kháng chiến ở Cần Giuộc (1861) - biểu tượng cho sự kiên định và dũng cảm của người dân miền Nam trong cuộc đấu tranh chống Pháp.
Trong tác phẩm văn học về lòng yêu nước và chống Pháp, Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện nhiều hình ảnh về anh hùng, từ đó truyền đạt ý nghĩa về anh hùng trong xã hội.
Đó là những người như Trương Định, sĩ phu sáng suốt và dũng cảm, họ không chỉ biết trung thành với quốc gia mà còn dám đối đầu với những quyết định sai trái của triều đình, ở lại với nhân dân, đấu tranh bảo vệ đất nước, giữ gìn di sản văn hóa của tổ tiên.
Vì họ không lắng nghe lời của bèo, chẳng ngừng lại mặc dù đã đi xa; theo lòng dân phải chịu ảnh hưởng của tướng quân ác, gánh vác nhiều gánh nặng.
(Trích từ Văn tế Trương Định - 1864)
Họ là những người như Phan Tòng, vẫn trung thành với vai trò con người và đồng thời làm nên kỳ tích trong việc chống giặc để lại sự hào quang vĩ đại:
Cống hiến sức lao động để bảo vệ đất nước
Giữ vững truyền thống và danh dự của bản thân
Tinh thần hai chữ vẫn sáng rực dù đã trải qua nhiều khó khăn
Khí phách vĩ đại như núi non hiên ngang
(Trích từ Thơ điếu Phan Tòng - 1868)
Bên cạnh những anh hùng nổi tiếng như Trương Định, Phan Tòng, Nguyễn Đình Chiểu cũng tôn vinh những người nông dân, những anh hùng không tên không danh. Trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ông thể hiện cái nhìn đúng đắn về anh hùng và quan điểm tích cực về cuộc sống và cái chết.
Quan niệm tiên tiến và sáng tạo về người nông dân là một phần quan trọng của tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu. Trong lịch sử, đặc biệt là trong cuộc chiến chống Pháp, nhân dân luôn đóng một vai trò quan trọng. Từ thời kỳ trước đó, hình ảnh người dân đã được đề cập, nhưng chỉ đến khi Nguyễn Đình Chiểu viết (cuối thế kỷ 19), họ mới được tôn vinh như những anh hùng thực sự với mọi đặc điểm và phẩm chất của mình.
Họ là những người nông dân đơn giản, suốt đời gian khổ với cày cấy, nghề nghiệp đất đai. Trong thời bình, họ giống như những điểm sáng xa xôi, nhẹ nhàng lặng lẽ bên kênh rạch, ruộng đồng, bãi cỏ, ven sông. Nhưng khi quân giặc xâm lược phá hoại đất nước, lấy đi mảnh ruộng, miếng cơm manh áo, họ đã sẵn sàng đứng lên, chiến đấu mạnh mẽ, hy sinh máu thịt để tôn vinh hào hùng của dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả một cách sống động và cảm động tình cảm của dân tộc dành cho các chiến binh, những người nông dân. Họ từng là những người chỉ biết cày cuốc, nhưng đột nhiên trở thành anh hùng cứu nước. Chỉ với một chiếc áo, một cây gậy, một cây dao, một bó rơm, họ đã tình nguyện tham gia vào quân đội. Dù trang phục, vũ khí của họ rất đơn giản, võ nghệ chưa được rèn luyện... nhưng họ vẫn tỏ ra kiêng nể và kiên cường: Khi quân kẻ thù dọa trống kêu, đập rào vượt qua... họ dũng cảm vượt lên như không hề sợ.
Họ là những con người bị bỏ quên nhưng đã tỉnh ngộ với trách nhiệm công dân, đứng lên làm chủ vận mệnh của đất nước, dùng tấm thân trần trụi chống lại sức mạnh của quân thù, ý chí tự giác, tinh thần vượt lên trên sức mạnh tự nhiên của người nông dân để bảo vệ quê hương.
Trong tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu có quan điểm tiên tiến về người anh hùng. Anh hùng không chỉ là những người tên tuổi, những người xuất sắc, mà còn có thể là người nông dân, là một tập thể anh hùng. Ông đánh giá cao vai trò của người nông dân, họ là nhân tố chủ chốt trong cuộc chiến tranh khi vua Nguyễn đầu hàng quân địch. Vai trò đó trở nên quan trọng hơn khi họ kế thừa và phát huy truyền thống bất khuất của dân tộc, đồng thời kết hợp và phát triển bản tính dũng mãnh, hào hiệp của người Nam Bộ. Nguyễn Đình Chiểu tin tưởng vào nghĩa quân và coi họ là những anh hùng xứng đáng. Chính họ đã làm sáng tỏ lẽ sống cao quý của thời đại.
Sống dưới bóng quân thù làm lợi ích riêng, làm giống như kẻ cầm đầu ác, càng sống càng thấy u ám, sống với những lính phản quân xấu xa, phân chia rượu và bánh mỳ, nghe càng thấy buồn.
Thà rằng đặng mình dâng cả cuộc đời để bảo vệ quê hương, theo tiếng gọi của tổ tiên và danh dự; vinh quang hơn là chịu cảnh bị lợi dụng, sống dưới bóng một nền địch, sống trong bất hạnh.
Và sự hy sinh của người anh hùng vì đất nước là bất diệt. Họ hiến dâng cuộc sống để làm sống lại, tăng lên sức mạnh của cuộc sống:
Sống để đánh giặc, chết vẫn đánh giặc, linh hồn hỗ trợ binh sĩ, mong ước báo thù cả đời...
Trong việc viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu không chỉ để khẽo lên những ai hy sinh vì đất nước mà còn thể hiện một cách chính xác về người anh hùng. Sáng tác của Đồ Chiểu đã đem lại sự kích động cao cả và cảm xúc vô biên trong lòng người đọc. Đối với Nguyễn Đình Chiểu, những con người giản dị, bình thường, không tên tuổi cũng có thể trở thành anh hùng khi họ yêu quý đất nước, dân tộc.
Có thể nói Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là đỉnh cao của tư tưởng nghệ thuật trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Đình Chiểu. Trong di sản văn học của Việt Nam cổ, nó xứng đáng được coi là tác phẩm xuất sắc nhất. Phạm Văn Đồng trong bài 'Nguyễn Đình Chiểu - Ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc' từng đánh giá cao bài văn này, xếp nó ngang hàng với 'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi và nói rằng: Một bên là bài ca về những anh hùng thất thế nhưng vẫn kiêu hãnh trước lịch sử.