Quan Kế Huy | |||
---|---|---|---|
Quan Kế Huy vào năm 2023 | |||
Sinh | 20 tháng 8, 1971 (52 tuổi) Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa | ||
Tên khác | Jonathan Ke Huy Quan | ||
Học vị | Đại học Nam California | ||
Nghề nghiệp | Diễn viên, chỉ đạo đóng thế | ||
Năm hoạt động | 1984–2004, 2019–nay | ||
Tên tiếng Trung | |||
Phồn thể | 關繼威 | ||
Giản thể | 关继威 | ||
| |||
Tên tiếng Việt | |||
Tiếng Việt | Quan Kế Huy |
Quan Kế Huy (tên tiếng Trung: 關繼威, Hán Việt: Quan Kế Uy; tên tiếng Anh Ke Huy Quan; sinh ngày 20 tháng 8 năm 1971), hay còn được biết đến với nghệ danh Jonathan Ke Quan (/kiːˈkwɑːn/), là một nam diễn viên người Mỹ, một thuyền nhân Việt Nam, xuất thân từ một gia đình người Việt gốc Hoa. Từ thuở nhỏ ông đã tham gia vào các vai diễn như Short Round trong Indiana Jones và Đền Thờ Ma Quái (1984), Data trong Người Đi Tìm Kho Báu (1985). Sau khi hoàn tất các bộ phim hài Head of the Class (1991) và Người Đá Encino (1992), ông đã tạm ngừng diễn xuất.
Sau gần 20 năm gián đoạn kể từ vai diễn cuối cùng của mình, Huy đã trở lại diễn xuất vào năm 2021 trong bộ phim hài – chính kịch – khoa học viễn tưởng Cuộc Chiến Đa Vũ Trụ được giới phê bình đánh giá cao. Diễn xuất của ông đã nhận được sự hoan nghênh lớn và mang về cho ông Giải Oscar và Giải Quả Cầu Vàng cho nam diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất. Ông là một trong hai diễn viên gốc Á đã đoạt Giải Oscar cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất, người còn lại là Haing S. Ngor. Ngoài ra, với chiến thắng tại Giải Thưởng của Nghiệp Đoàn Diễn Viên Màn Ảnh 2023, ông cũng đã trở thành người gốc Á đầu tiên giành chiến thắng ở hạng mục nam diễn viên phụ điện ảnh. Ông là diễn viên sinh ra tại Việt Nam đầu tiên giành giải Oscar và giành hạng mục Nam Phụ cho giải thưởng Quả Cầu Vàng.
Xuất thân và giáo dục
Quan Kế Huy sinh ngày 20 tháng 8 năm 1971 tại Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa. Cha mẹ của ông là người Việt gốc Hoa có 9 người con, ông là một trong số đó. Đến năm 1978, ông và gia đình đã vượt biên bằng thuyền ra khỏi Việt Nam và đến một trại tị nạn ở Hồng Kông, trong khi mẹ ông cùng ba anh chị em khác chạy sang Malaysia. Cả gia đình ông sau đó đã được tái định cư tại Hoa Kỳ thông qua các chương trình dành cho người tị nạn vào năm 1979.
Tại Hoa Kỳ, Huy đã học tại trường Trung học Mount Gleason ở Tujunga, California và trường Phổ thông Alhambra ở Alhambra, California. Vào năm 1999, ông đã tốt nghiệp Trường Nghệ thuật Điện ảnh của Đại học Nam California (en). Lúc đó, ông đã sản xuất ghi hình một bộ phim ngắn Voodoo và nhận được nhiều giải thưởng; người bạn của ông, Gregg Bishop đã viết kịch bản và đạo diễn bộ phim. Nhiều bộ phim ngắn của ông như Electronic Labyrinth THX 1138 4EB của George Lucas và The Lift của Robert Zemeckis hiện đang được sử dụng để định hướng cho sinh viên điện ảnh khi mới nhập học vào Đại học Nam California. Sau khi tốt nghiệp, ông đã sang Hồng Kông thực hiện nhiều dự án cùng với đạo diễn Nguyên Khuê (zh).
Sự nghiệp diễn xuất
1984–1997: Đột phá trong sự nghiệp với Indiana Jones
Kế Huy đã bắt đầu sự nghiệp diễn xuất từ khi 12 tuổi khi vào vai Short Round trong bộ phim Indiana Jones and the Temple of Doom cùng với nam diễn viên gạo cội Harrison Ford. Giám đốc cast đã thử vai một số đứa trẻ tại trường tiểu học Castelar, bao gồm cả em trai của Huy. Năm 1985, ông đã vào vai chính trong Người Đi Tìm Kho Báu với vai trò là thành viên trong một nhóm trẻ cùng tên phim. Ngoài ra, vào năm 1986 ông cũng đã vào vai một đứa trẻ mồ côi chuyên đi cướp bóc trong một bộ phim Đài Loan It Takes a Thief. Đến năm 1987, ông đã xuất hiện trong bộ phim Nhật Bản Passengers (Passenjā Sugisarishi Hibi (ja)) cùng với nữ ca sĩ Honda Minako. Ông cũng từng tham gia vai Sam trong sê-ri phim ngắn Together We Stand (1986–1987) hay vai Jasper Kwong trong sitcom Head of the Class từ năm 1990 đến năm 1991.
Năm 1991, ông tham gia bộ phim Breathing Fire và sau đó có vai nhỏ trong những năm tiếp theo. Ông đóng vai chính trong phim truyền hình tiếng Quan Thoại Người Cao To Và Thợ Mộc Nhỏ với 40 tập. Hoặc vào năm 1996, ông tham gia phim hợp tác giữa Hồng Kông và Việt Nam Hồng Hải Tặc. Kế Huy còn học Taekwondo dưới sự dẫn dắt của Philip Tan cho bộ phim Indiana Jones and the Temple of Doom; sau đó, Đàm Đạo Lương (zh) là người chỉ dẫn ông.
1998–2018: Chuyển sang vai trò sản xuất
Khi trưởng thành, Kế Huy gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công việc diễn xuất tại Hoa Kỳ. Cuối cùng ông từ bỏ diễn xuất để tham gia chương trình điện ảnh tại Đại học Nam California (USC). Sau khi hoàn tất chương trình tại USC, Huy được Nguyên Khuê (en) mời sang Toronto, Ontario, Canada để hỗ trợ dàn dựng các phân cảnh chiến đấu cho bộ phim X-Men (2000). Trong thập kỷ tiếp theo, ông tham gia vào việc sản xuất cùng Khuê cho dự án The One (2001). Ngoài ra, ông làm trợ lý đạo diễn cho Vương Gia Vệ trong bộ phim 2046 (2004).
2018–nay: Trở lại vai trò diễn xuất
Kế Huy được cho là đã tái khơi nguồn cảm hứng diễn xuất từ thành công của phim Con Nhà Siêu Giàu Châu Á vào năm 2018. Cùng năm đó, đôi Daniels (en) bắt đầu tuyển chọn diễn viên cho dự án Cuộc Chiến Đa Vũ Trụ. Được cho là đôi này gặp khó khăn trong việc tìm diễn viên cho vai Waymond Wang – một nhân vật xuất hiện với ba thân phận khác nhau trong phim. Họ tình cờ gặp Kế Huy trên Twitter. Hai tuần sau khi nhận lời mời từ người đại diện, nam diễn viên bắt đầu thử vai chính thức cho dự án. Vào tháng 1 năm 2020, Quan Kế Huy chính thức gia nhập phim Cuộc Chiến Đa Vũ Trụ.
Bộ phim ra mắt vào tháng 3 năm 2022 và được đánh giá cao, nhờ vào diễn xuất xuất sắc của Kế Huy. Ông đã nhận được nhiều lời khen ngợi và sự chú ý từ giới truyền thông nhờ vai diễn trong bộ phim Cuộc Chiến Đa Vũ Trụ. Kế Huy đã giành được giải Quả cầu vàng, giải thưởng từ Nghiệp Đoàn Diễn viên Màn ảnh và giải Oscar. Chiến thắng tại hạng mục Nam diễn viên phụ của Nghiệp Đoàn Diễn viên Màn ảnh đã khiến ông trở thành người gốc Á đầu tiên giành giải này. Thành tích này cũng giúp ông có cơ hội tái hợp với Steven Spielberg và Harrison Ford.
Đời tư
Kế Huy là người gốc Hán, là người Hoa, thuộc nhóm dân tộc thiểu số của Việt Nam. Ông thông thạo tiếng Anh, tiếng Quảng Châu, tiếng Trung và tiếng Việt. Hiện ông đã kết hôn với Corinna Ke Quan và sống cùng vợ tại Woodland Hills, Los Angeles. Ông có người bạn thân là Jeff Cohen, đồng thời là bạn diễn trong phim The Goonies và cũng là luật sư cá nhân của ông.
Tác phẩm
Phim điện ảnh
Năm | Tựa phim | Vai diễn |
---|---|---|
1984 | Indiana Jones and the Temple of Doom | Short Round |
1985 | The Goonies | Richard "Data" Wang |
1986 | It Takes a Thief | Little Guan |
1987 | Passenger | Rick |
1991 | Breathing Fire | Charlie Moore |
1992 | Encino Man | Kim |
1996 | Red Pirate | Kwan Chia Chiang |
2002 | Second Time Around | Sing Wong |
2021 | Finding ʻOhana | George Phan |
2022 | Cuộc chiến đa vũ trụ | Waymond Wang |
2024 | The Electric State | Dr Amherst |
Kung Fu Panda 4 | Han |
Chương trình truyền hình
Năm | Tựa phim | Vai trò | Ghi chú |
---|---|---|---|
1986–1987 | Together We Stand | Sam | 19 tập |
1990–1991 | Head of the Class | Jasper Kwong | Nhân vật chính (mùa 4–5) |
1991 | Tales from the Crypt | Josh | Tập: "Undertaking Palor" |
1993 | The Big Eunuch and the Little Carpenter | Ba Dajia | Nhân viên chính; bản truyền hình của Đài Loan, 40 tập |
2023 | Loki | Ouroboros | Mùa hai. |
2023 | American Born Chinese | Freddy Wong | Sê-ri chưa ra mắt. |
Điều khác
Năm | Tựa phim | Vai trò |
---|---|---|
2000 | X-Men | Trợ lý hành động, phiên dịch |
2001 | The One | Trợ lý |
2004 | 2046 | Trợ lý đạo diễn |
Ghi chú chú thích
Ghi chú
Liên kết bên ngoài
- Jonathan Ke Quan trên IMDb
Giải Oscar cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất |
---|
Giải của Hội phê bình phim Boston cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất |
---|
Giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất |
---|
Giải của Hội phê bình phim New York cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất |
---|
Giải Sao Thổ cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất |
---|
Tiêu đề chuẩn |
|
---|