Quý Ngọc, hay đá quý (và một số loại đá bán quý) là các khoáng vật quý hiếm có nguồn gốc từ thiên nhiên hoặc nhân tạo, có giá trị thẩm mỹ, màu sắc rực rỡ và đồng đều, độ tinh khiết và ổn định cao, khả năng chiết quang và phản quang mạnh, độ cứng cao và chống ăn mòn tốt. Quý Ngọc được ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành công nghiệp, chủ yếu làm trang sức và đồ trang sức, đặc biệt là nữ trang.
Mặc dù thực tế không có sự phân biệt rõ ràng giữa hai khái niệm 'quý ngọc' và 'đá quý', người ta thường hiểu 'quý ngọc' như một loại đá quý cụ thể như ngọc lục bảo, lam ngọc, hồng ngọc, hoàng ngọc, ngọc bích, đá mắt mèo; trong khi 'đá quý' có ý nghĩa rộng hơn và bao gồm nhiều loại đá quý khác nhau (ví dụ như trong khái niệm 'nhẫn cưới gắn đá quý', thường chỉ đến những chiếc nhẫn được gắn hồng ngọc, lam ngọc, ngọc lục bảo, khác với nhẫn cưới gắn kim cương và nhẫn cưới phay trơn). Từ một góc độ khác, 'đá quý' thường chỉ đến các sản phẩm tự nhiên chưa qua chế tác, trong khi 'quý ngọc' đã được chế tác và mài dũa hoàn chỉnh, tuy nhiên đôi khi sự phân biệt này có thể mơ hồ theo từng quan điểm khác nhau.
Đặc tính
Hầu hết các loại ngọc đều có những đặc tính đặc biệt như độ cứng, khả năng tương tác với ánh sáng (chiết quang, phản quang), khả năng chống ăn mòn, tính cách điện hay bán dẫn, v.v. Các loại đá ngọc được phân biệt với các khoáng thạch có màu sắc nhưng ít quý giá hơn (như đá cẩm thạch, đá hoa cương) chủ yếu là do sự quý hiếm và độ tinh khiết màu sắc đồng đều nhất.
Phân loại ngọc
Theo đặc tính
Khoáng vật tự nhiên trên thế giới có hơn 3000 loài, nhưng chỉ có khoảng 100 loài khoáng thạch phù hợp để chế tác thành đá quý hoặc đá bán quý. Trong số đó, chỉ có khoảng 20 loài được các thương nhân đá quý quan tâm, trong đó có kim cương, ngọc lục bảo, hồng ngọc và xa-phia được xem là bốn loại hàng đầu. Ở Nhật Bản, có bảy loại đá quý được xác định là quan trọng nhất, bao gồm cả opan, alexandrite, jadeite ngoài bốn loại đã nêu. Ngoài ra, kim cương, ngọc lục bảo, hồng ngọc, xa-phia, jadeite và ngọc trai còn được gọi là 'ngũ hoàng nhất hậu' (năm vua và một hoàng hậu).
Theo màu sắc
Một số loại ngọc có cùng thành phần khoáng chất cơ bản, nhưng khác nhau về màu sắc, ví dụ như hồng ngọc và xa-phia đều thuộc loại corundum, nhưng hồng ngọc là corundum màu đỏ, trong khi xa-phia là corundum màu xanh lam, phổ biến trong trang sức nữ. Các loại thạch anh cũng có thành phần chính là silic dioxide, nhưng amethyst (thạch anh tím) được coi là loại ngọc đặc biệt vì sự hiếm có của nó.
Dưới đây là danh sách một số loại ngọc theo màu sắc, độ cứng và ý nghĩa tượng trưng khi sử dụng trong trang sức. Ý nghĩa này có thể thay đổi theo từng loại và cả theo quan niệm văn hóa của từng dân tộc:
Tên ngọc | Màu sắc | Độ cứng | Tượng trưng |
---|---|---|---|
kim cương | Không màu, hồng, vàng, lam, đen, tía | 10 | Sự tinh khiết, tình yêu vĩnh cửu, giàu sang và xa hoa, mạnh mẽ và kiên cường, sự tận tụy, tận tâm hết mình của con người |
ngọc lục bảo | Màu xanh dịu bình thường, màu rực rỡ | 7,5 | Hạnh phúc, vận may, sự hồi sinh, sự hi vọng, tình yêu thương; trợ giúp trí nhớ và trí thông minh; tăng sự lương thiện và trung thực, phơi bày sự dối trá và phản bội. |
hồng ngọc | Từ hồng nhạt đến đỏ thẫm, màu huyết chim bồ câu | 9 | Tri kỷ, tình yêu nồng thắm, hạnh phúc, biểu tượng của vẻ đẹp; bao bọc cho cơ thể người đeo nó một sức khỏe tốt, một trí tuệ thông sáng, minh mẫn với việc loại bỏ đi những suy nghĩ không tốt; sự khuyến khích, khích lệ động viên, cuộc sống, của nhiệt huyết, trái tim, và sức mạnh. |
xa-phia | Lam đậm, lam tím, lam vàng | 9 | Chân thành, khát vọng, thanh tao, hy vọng; sự từ tốn, điềm đạm, kiên trì; sự khai sáng cho tâm hồn con người và sự đổi mới từ bên trong |
xa-phia sao | Lam, đen | 9 | Vận may, chân thành, khát vọng, thanh tao |
ngọc mắt mèo | Vàng, chanh | 8,5 | Cao quý, sức khoẻ, vận may |
alexandrite | Xanh đậm, hồng, tím | 8,5 | Cao quý, trường thọ |
opal | Đen, đỏ, lam,vàng, lục | 6 | Thiên sứ của vận may, yên vui, thuận hòa, bình an và sắc đẹp |
spinel | Đỏ, tím, lam | 8 | Tri kỷ và hạnh phúc |
aquamarine | Lam đậm, lam chàm, vàng | 7,8 | Dũng cảm, hạnh phúc, sáng suốt, tuổi xuân vĩnh hằng, cảm giác bình yên, làm giảm sợ hãi, nỗi đau cũng như sự bất hạnh, sự tự bộc lộ những năng lực còn ấn giấu. |
tourmaline | Hồng, chàm, lam | 7,3 | Vận may, bình yên, sắc màu tuổi trẻ |
olivine | Vàng, chanh | 6,8 | Vợ chồng hạnh phúc trăm năm bên nhau; tình cảm nồng thắm, xanh mát, dịu dàng dễ chịu và hòa hợp; sự thành công, hòa bình và may mắn; sự quyến rũ tình yêu, sự điềm tĩnh và kiềm chế |
zircon | Vàng cam, đỏ, không màu | 7,3 | Thắng lợi, vận may, sáng suốt |
topaz | Vàng cam, đỏ sẫm, không màu | 8 | Tương ngộ, hữu nghị, đàng hoàng; tình cảm mạnh mẽ, chính xác và hòa đồng, lịch sự và hào hiệp. |
garnet | Đỏ tím, vàng cam, đỏ rực | 7,3 | Chân thành, hữu ái, đẹp đẽ, sự thật hoàn hảo, chân lý, lẽ phải, niềm tin, sự tin tưởng, những lời hứa bảo đảm, sức mạnh và lòng trung thành tuyệt đối. Ngoài ra, còn là sự bền lòng, tính kiên trì, nhẫn nại |
ametit (thạch anh tím) | Tím sẫm, tím | 7 | Chân thành, hướng thiện, thanh tao, sung mãn, sự quý phái, dòng máu hoàng tộc, sự lãnh đạm điềm tĩnh, sự ổn định, bền vững, bình thản và lòng hiếu thảo, yêu thương |
đá Mặt Trăng | Trắng sữa, lam nhạt | 6 | Sự sâu sắc, thông thái sáng suốt, khôn ngoan, uyên thâm trầm tĩnh, đẹp đẽ và sự toàn vẹn, bảo bối của vận may, thần thánh, phú quý và trường thọ |
moldavite | Đen, sẫm | 5,5 | Thần tâm linh |
ngọc lam | Lam, lam xậm, vàng chanh | 5,5 | Thắng lợi, vận may, hạnh phúc |
lapis-lazuli | Lam tím, Lam chàm | 5,5 | Khỏe mạnh |
cẩm thạch jadeite | Chàm sẫm, cỏ tranh, vàng đỏ | >6,5 | Thắng lợi, vận may, hạnh phúc, thanh tao |
cẩm thạch nephrite | Trắng, chanh, chàm, vàng chanh | <6,5 | Trường thọ, may mắn |
ngọc trai nước mặn | Màu sắc kì lạ, có thể có hoặc không có màu hoa hồng, phấn hồng, trắng, vàng | 3 | May mắn, cao quý, trường thọ |
ngọc trai nước ngọt | Màu sắc kì lạ, có thể có hoặc không có màu hoa hồng, phấn hồng, trắng, vàng, đen | 3 | May mắn, cao quý, trường thọ |
Theo nguồn gốc
Cho đến cuối thế kỷ 20, ngọc vẫn là sản phẩm tự nhiên được hình thành dưới tác động lý hóa và biến đổi địa chất của Trái Đất trong hàng triệu năm, trừ một vài loại như ngọc trai từ trai, sò, ốc nước mặn hay nước ngọt; hổ phách từ thực vật như cây thông; và các loại san hô đặc biệt như san hô đỏ. Ngược lại, công nghệ sản xuất ngọc nhân tạo đã phát triển mạnh mẽ, bắt đầu từ việc nuôi cấy thành công ngọc trai nhân tạo ở Nhật Bản sau Thế chiến thứ hai, và sau đó là hồng ngọc, xa-phia, hoàng ngọc và thậm chí kim cương nhân tạo cũng được nghiên cứu sản xuất tại các phòng thí nghiệm trên toàn thế giới. Các sản phẩm ngọc nhân tạo không chỉ có chỗ đứng trong công nghiệp mà còn chiếm lĩnh thị trường trang sức cao cấp, có thể vượt trội hơn về độ tinh khiết và màu sắc so với ngọc thiên nhiên, mặc dù giá trị của chúng vẫn thấp hơn rất nhiều so với ngọc tự nhiên.
Nếu như ngọc trai, hồng ngọc, xa-phia, hoàng ngọc và ngọc lục bảo được sản xuất nhân tạo và có tính chất vật lý hóa không khác biệt so với ngọc tự nhiên, thì các sản phẩm như hồng ngọc có khi được thêm chất phụ gia đặc biệt để phân biệt với ngọc tự nhiên khi thử nghiệm dưới tia cực tím. Tuy nhiên, kim cương nhân tạo có nhiều loại khác nhau, bao gồm cả các bon tinh thể và các sản phẩm như cubic zirconia và moissanite, chúng có ngoại hình giống kim cương nhưng lại được chế tạo từ chất liệu khác nhau. Việc phân biệt chính xác giữa ngọc tự nhiên và nhân tạo luôn là thách thức lớn, với các công cụ kiểm định ngày càng trở nên tinh xảo và chi phí kiểm định cũng ngày càng tăng cao.
Theo địa phương
Mặc dù rất hiếm, nhưng có khi người ta có thể phân biệt được một số loại ngọc từ một địa phương cụ thể so với các loại từ địa phương khác, do chất lượng của ngọc tại từng vùng đất có thể khác nhau.
- Kim cương có nhiều màu sắc khác nhau được tìm thấy ở Nam Phi và một số quốc gia ở Nam châu Phi, Nga, và Trung Quốc. Kim cương hồng nổi tiếng với chất lượng hoàn hảo được khai thác tại Argyle, Úc.
- Ngọc lục bảo (emerald) được khai thác ở Brasil, Zambia, Myanmar. Ngọc từ Colombia nổi tiếng với chất lượng tốt nhất, có màu xanh rực rỡ và sống động nhất.
- Hồng ngọc (ruby) có thể khai thác ở Nga, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam, Kenya, Tanzania và Sri Lanka.
- Xa-phia (sapphire) được tìm thấy chủ yếu ở Úc, châu Phi, và Campuchia.
- Garnet có nhiều màu sắc như đỏ thẫm, tím đỏ và đen, được tìm thấy ở Arizona (Mỹ), Nam Mỹ, Sri Lanka và Ấn Độ. Các loại màu xanh lục, lục tối, nâu vàng, vàng nâu nhạt và xanh ngọc bích có ở Thụy Điển, Sri Lanka và Nam Mỹ. Màu xanh táo nhạt được tìm thấy ở Nga và Phần Lan. Một trong những đặc điểm nổi bật của garnet là màu đỏ nâu sậm, được khai thác ở Ấn Độ, Nga và châu Mỹ.
- Amethyst (thạch anh tím) có nhiều sắc độ từ tím xanh đến tím đỏ và luôn rực rỡ. Màu tím đỏ và tím thẫm được biết đến với tên gọi urallian và Siberia, thường được tìm thấy ở Brasil, Uruguay, Nga, Bolvia, México, Namibia, Tanzania, Zambia và Mỹ.
- Aquamarine (ngọc xanh biển) trước đây được cung cấp bởi Brasil cho toàn cầu, nhưng ngày nay Nigeria và Madagascar là các nguồn khai thác chính cho loại ngọc xanh nhạt này.
- Peridot (ngọc mã não) ban đầu được phát hiện tại Zerbernet, sau đó được khai thác ở đảo St. Joan, bờ biển Ấn Độ, Pakistan, Kashmir và dãy Himalaya.
- Citrin hay topaz vàng nâu được tìm thấy nhiều ở Brasil, cũng được biết đến với tên gọi thạch anh topaz. Topaz xanh được tìm thấy ở Sri Lanka, châu Phi, Thái Lan và Campuchia.
Mục đích sử dụng
Từ lâu, ngọc và vàng luôn liên quan đến biểu tượng của quyền lực và sự giàu có của các vị quý tộc như vua chúa, hoàng gia, công tước khi được sử dụng làm trang sức trên vương miện, quyền trượng, gươm kiếm, yên ngựa và các loại trang sức của dòng tộc hoàng gia. Hiện nay, cả ngọc lẫn vàng đều có thể được dùng như một loại tiền tệ (công cụ thanh toán). Tuy nhiên, trên thế giới, không ít loại tiền tệ đã mất giá trị. Trong những năm gần đây, giá vàng trên thế giới luôn biến động mạnh, đôi khi giảm sút đáng kể, trong khi đó giá trị của ngọc lại liên tục tăng lên, đặc biệt là đối với những loại ngọc quý xuất xứ từ thiên nhiên. Có nhiều quốc gia coi ngọc là loại tiền tệ cứng, được ngân hàng dự trữ và giữ giá, ví dụ như Iran, nơi có kho báu hoàng gia với hơn 3000 viên kim cương đã được công khai trong cuộc cách mạng lật đổ vua Iran, từ đó đến nay vẫn là nền tảng cho tiền tệ Iran. Từ những năm 1970 trở lại đây, thị trường giao dịch các loại ngọc trang sức trên toàn cầu phát triển sôi nổi. Vào năm 1991, kim ngạch thương mại của ngành công nghiệp ngọc lên tới 96 tỷ USD. Gần đây, tốc độ tăng giá của ngọc dao động từ 8-12% mỗi năm, và câu nói 'vàng có giá, ngọc vô giá' đã trở thành chân lý phổ biến.
Mỗi loại đá quý có hình dáng và màu sắc riêng, vì thế chúng mang những giá trị tượng trưng và truyền thuyết riêng biệt. Các loại đá này thường được xem như biểu tượng của các tháng và mùa. Do đó, đối với con người, màu sắc của ngọc không chỉ phản ánh sự giàu có mà còn thể hiện cá tính. Trong cả phương Đông và phương Tây, ngọc được coi là món quà của tự nhiên, tượng trưng cho hòa bình, hữu nghị, may mắn, sự thành công, hạnh phúc, sức mạnh và quyền lực. Ngày nay, với vẻ đẹp bí ẩn và giá trị kinh tế cao, ngọc ngày càng thu hút không chỉ những người nổi tiếng, nhà thiết kế mà còn cả những người bình thường trên toàn thế giới.
Ngọc được sử dụng chủ yếu trong nghệ thuật mỹ và trang sức, tuy nhiên một số loại có tính chất lý hóa đặc biệt có thể áp dụng trong khoa học kỹ thuật. Hồng ngọc và xa-phia thường được sử dụng trong công nghệ laser để tạo ra laser hồng ngọc hoặc laser xa-phia; làm chất kết của các dụng cụ cơ khí chính xác như trục của các bánh răng đồng hồ; hoặc các thấu kính yêu cầu độ tinh khiết và độ bền cao như ống kính máy ảnh, các thấu kính kính hiển vi, mặt kính đồng hồ v.v. Kim cương, với độ cứng cao nhất trong số các khoáng vật tự nhiên, được sử dụng rộng rãi trong cắt gọt, mài, mài bóng và chỉ có kim cương mới có thể cắt và mài kim cương. Kim cương không màu và một số màu khác, trừ màu xanh, cũng được sử dụng để sản xuất các điện trở không dẫn điện, hoặc vật liệu bán dẫn với kim cương xanh, cho các thiết bị điện tử có khả năng chịu nhiệt và yêu cầu độ bền cực cao. Nhờ vào tính cứng cơ học và ít phản ứng hóa học với một số hóa chất, kim cương cũng được sử dụng để sản xuất các thiết bị đặc biệt trong công nghệ địa chất như đầu mũi khoan.
Còn thần bí hơn, trong nhiều nền văn hóa, người ta tin rằng một số loại ngọc có khả năng chữa trị một số bệnh cụ thể.
Quan niệm truyền thống
Mỗi tháng sinh của ngọc
Theo một số nền văn hóa, mỗi loại ngọc có thể được liên kết với số mệnh của con người sinh ra vào từng tháng cụ thể:
- Tháng 1: đá thạch lựu;
- Tháng 2: thạch anh tím;
- Tháng 3: ngọc xanh biển;
- Tháng 4: kim cương;
- Tháng 5: ngọc lục bảo;
- Tháng 6: ngọc trai hoặc orthoclas (đá Mặt Trăng);
- Tháng 7: ruby (hồng ngọc);
- Tháng 8: peridot (olivin);
- Tháng 9: sapphire (ngọc xa-phia);
- Tháng 10: opan;
- Tháng 11: topaz vàng nâu hoặc citrin;
- Tháng 12: ngọc lam hoặc topaz màu xanh lam.
Mùa sinh của ngọc
Bốn mùa cũng liên quan đến bốn loại ngọc quý hàng đầu: sự sống mùa xuân là ngọc lục bảo, nóng nực mùa hè là ánh sáng mặt trời trong ruby, tĩnh lặng mùa thu là màu xanh biếc của sapphire, lạnh lẽo mùa đông là vẻ đẹp rực rỡ trong kim cương.
Những kỷ niệm ngày cưới
Các lễ kỷ niệm ngày cưới có các tên gọi khác nhau, bao gồm Đám cưới Giấy (1 năm), Đám cưới Gỗ (5 năm), Đám cưới Đồng (10 năm), Đám cưới Pha lê (15 năm); Đám cưới Sứ (20 năm); Đám cưới Bạc (25 năm) và Đám cưới Vàng (50 năm), mỗi loại tên này liên quan đến một loại ngọc khác nhau:
- 30 năm: Đám cưới Ngọc trai;
- 40 năm: Đám cưới Hồng ngọc;
- 45 năm: Đám cưới Ngọc bích;
- 55 năm: Đám cưới Ngọc lục bảo;
- 60 năm: Đám cưới Kim cương.
Lựa chọn và bảo quản ngọc
Lựa chọn
Không chỉ kim cương, hầu hết các loại ngọc thường được lựa chọn dựa trên các tiêu chí về màu sắc (color), độ tinh khiết (clarity), kích thước (carat), kiểu dáng, đường cắt (cut) hay còn gọi là tiêu chuẩn 4C. Ngoài ra, đôi khi còn thấy có sự hiện diện của 6C với giá cả (cost) và giấy chứng nhận, kiểm định (certification). Những tiêu chuẩn đó thường được cụ thể hóa thành:
- Về màu sắc, ngọc phải tươi sáng đồng đều, độ đậm nhạt phải tương ứng với nhau, đậm quá thì dễ chìm màu, nhạt quá thì lại không có sức hấp dẫn, hồng nên hồng màu huyết chim câu, xanh lam nên xanh như nền trời sau cơn mưa, kim cương phải trong suốt đến nỗi để ánh sáng lọt qua không có chút tạp sắc nào, ngọc lục bảo và jadeite phải có màu sắc rực rỡ.
- Độ trong suốt tốt, phản quang mạnh, óng ánh, rất ít lỗi hoặc không có lỗi.
- Về kích thước, ngọc càng to càng tốt, nhất là những loại ngọc cao cấp. Giá của ngọc tăng theo cấp số nhân khi trọng lượng của chúng tăng theo cấp số cộng.
- Quý hiếm; bền.
- Kiểu dáng thời thượng, công nghệ tinh xảo, các bề mặt cắt hoàn hảo.
Bảo quản ngọc
- Vì đá ngọc có tính dầu không nên dùng nước để rửa, tránh việc dính chất dầu lên bề mặt của ngọc làm giảm độ sáng. Nếu ngọc bị bẩn, tốt nhất là dùng sóng siêu thanh để tẩy, dùng vải nhung, da hươu lau sạch hoặc dùng rượu thuần chất hoá học lau ướt đến khi ngọc sáng như cũ.
- Đại đa số ngọc thiên nhiên có tính chất ổn định, không tan trong acid và kiềm, tuy nhiên cũng cần tránh tiếp xúc với hóa chất nhất là các loại mỹ phẩm.
- Ngọc tuy bền nhưng không được tác động mạnh hoặc làm rơi, tránh bị nứt hoặc vỡ nứt. Không được để ngọc va chạm với vật cứng, tuyệt đối không phơi dưới ánh nắng mặt trời, khi không đeo nên cất trong hộp nữ trang có lót mềm.
- Kim cương, hồng ngọc, lam ngọc có độ cứng rất cao, không được để cùng với các loại Ngọc khác, tránh làm sứt mẻ các loại ngọc khác.
- Trân châu có độ cứng thấp, không chịu được ma sát, những chất cho thêm vào trân châu thường là cơ chất và Calci-Cacbon, vì vậy không được cho tiếp xúc với bất kỳ chất chua nào như muối chua, axit nitric và dấm, mồ hôi và các loại mỹ phẩm, tránh cho trân châu bị biến sắc hoặc mất đi độ cứng.
Một số viên ngọc nổi tiếng
Kim cương
- Koh-I-Noor, có trọng lượng 186 carats, được phát hiện vào năm 1304, là viên kim cương có ánh chiết quang rực rỡ nhất nên còn gọi là 'Núi ánh sáng'.
- Excelsior: có trọng lượng ban đầu là 995,2 carats được cắt làm 10 mảnh trong đó có 3 mảnh lớn nhất có trọng lượng 158, 147 và 130 carats. Các mảnh còn lại được cắt làm 21 viên từ 70 carats đến nhỏ hơn 1 carats.
- Regent: nặng 410 carats khi chưa được mài, do một nô lệ Ấn Độ tìm thấy được năm 1701, là một viên kim cương đã chứng kiến những thăng trầm của lịch sử một số nước, đặc biệt là Pháp.
- Blue Hope: Viên kim cương xanh lớn nhất thế giới, nặng 45,2 carats, mang tên 'hy vọng' nhưng người ta tin rằng nó mang lại bất hạnh cho bất cứ ai sở hữu nó.
- Cullinan được tìm thấy vào tháng 26 tháng 1 năm 1905 tại Nam Phi, có trọng lượng 3,106 carat. Sau đó Cullinan được cắt thành 9 viên nhỏ hơn, trong đó có một viên lớn nhất mang tên Cullian 1 hay Great Star nặng 530,2 carats.
- Lesotho Promise: viên kim cương lớn thứ 15 của thế giới và là viên kim cương lớn nhất trong vòng 100 năm qua, nặng 603 carat.
Các loại ngọc khác
- Ngọc trai: viên ngọc trai lớn nhất từ trước đến nay nặng khoảng 6,4 kg, được một người thợ lặn Hồi giáo Philippines vô danh tìm ra tại ngoài khơi của đảo Palawan.
- Hồng ngọc tại Việt Nam: Viên rubby với biệt danh 'Ngôi sao Việt Nam' có trọng lượng 2.160 gram, tương đương 10.800 ca-ra, được tìm thấy tại mỏ đá quý Tân Hương, xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, được coi là quốc bảo Hồng ngọc Việt Nam.
Đánh giá
Triết gia La Mã cổ đại Pliny the Elder, khi trông thấy một viên đá quý đã thốt lên:'Đây, toàn bộ sự uy nghi của tạo hóa đều chứa đựng trong không gian nhỏ bé này, bộc lộ sự sáng tạo ưu tú', đại ý nói chỉ một hạt đá quý cũng đủ thể hiện cái đẹp của vạn vật.