Đôn Túc Hoàng quý phi 敦肅皇貴妃 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Ung Chính Đế Hoàng quý phi | |||||
Hoàng quý phi Đại Thanh | |||||
Tại vị | 15 tháng 11 năm 1725 - 23 tháng 11 năm 1725 | ||||
Tiền nhiệm | Hoàng quý phi Đông Giai thị | ||||
Kế nhiệm | Hoàng quý phi Cao Giai thị | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 10 tháng 10, năm 1686 {{{nơi sinh}}} | ||||
Mất | 27 tháng 12, năm 1725
(39 tuổi) Viên Minh Viên, Bắc Kinh | ||||
An táng | Tháng 3, 1737 Thái lăng (泰陵), Thanh Tây lăng | ||||
Phối ngẫu | Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế | ||||
Hậu duệ |
| ||||
| |||||
Tước hiệu | [Trắc Phúc tấn; 侧福晋] [Quý phi; 貴妃] [Hoàng quý phi; 皇貴妃] | ||||
Thân phụ
| Niên Hà Linh |
Quý phi Đôn Túc (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; sinh ngày 10 tháng 10 năm 1686 - mất ngày 27 tháng 12 năm 1725), thuộc họ Niên (年氏), là người của Hán Quân Tương Hoàng kỳ, và là một trong những phi tần được Thanh Thế Tông Ung Chính Đế yêu mến nhất. Bà là em gái của Phủ viễn Đại tướng quân, Niên Canh Nghiêu, một danh thần nổi bật trong triều Ung Chính.
Khác với phần lớn các chế độ Trắc Phúc tấn từ thời Càn Long trở đi, dù là Kỳ phân Tá lĩnh, Niên thị đã vào cung hầu Ung Chính Đế từ khi ông còn là Hoàng tử và được Khang Hi Đế tấn phong. Bà không được chọn từ Bát Kỳ tuyển tú để trở thành Trắc Phúc tấn như quy định sau này. Trong triều Ung Chính, Niên thị là Quý phi duy nhất và thường được gọi là 'sủng phi', được Ung Chính Đế yêu thương đặc biệt, sự sủng ái của ông dành cho bà được xem là vượt xa cả Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu.
Trong lịch sử cung đình nhà Thanh, Niên thị là người đầu tiên được phong từ Tiềm lên Quý phi và qua đời ở danh vị Hoàng quý phi. Lễ tang của bà đã trở thành hình mẫu cho các Hoàng quý phi trong triều Thanh sau này.
Tiểu sử
Trắc phi của Ung vương
Đôn Túc Hoàng quý phi, họ Niên, thuộc gia tộc Quảng Ninh Niên thị (廣寧年氏), quê ở huyện Hoài Viễn, Phượng Dương (nay thuộc tỉnh An Huy). Gia tộc này có nguồn gốc từ Quảng Ninh, Phụng Thiên, là một gia đình quan lại nổi tiếng trong triều Minh. Trong thời kỳ Thuận Trị, gia đình Niên đã chuyển đến Mãn Châu và cư trú tại Bắc Kinh. Vào năm Thuận Trị thứ 12 (1655), tổ phụ của Niên thị, Niên Trọng Long (年仲隆), đã tham gia kỳ thi khoa cử, thoát khỏi tình trạng nô lệ và được chuyển vào Hán Quân Tương Bạch kỳ.
Cha của bà là Hồ Quảng, tước Nhất đẳng Công Niên Hà Linh (年遐龄). Trong gia đình bà, anh trai trưởng là Niên Hi Nghiêu (年希尧), từng giữ chức Tuần phủ Quảng Đông, Hữu Thị lang bộ Công, và sau đó thăng chức Tổng quản Nội vụ phủ. Một người anh khác của Niên thị, Niên Canh Nghiêu, đã đạt đến chức Phủ viễn Đại tướng quân và Tổng đốc Xuyên Thiểm. Trong thời kỳ Khang Hi, Niên thị được phong làm Trắc Phúc tấn của Ung Thân vương Dận Chân - con trai thứ tư của Khang Hi Đế. Tuy nhiên, có nghi vấn liệu bà được chỉ hôn trực tiếp hay từ Cách cách tấn phong. Theo chỉ dụ sau này về việc phong làm Hoàng quý phi, có thể bà đã phục vụ trong phủ một thời gian trước khi được phong làm Trắc Phúc tấn, và có thể bà là Trắc Phúc tấn thứ hai, sau Lý thị - người sinh Hoằng Thời. Việc không phải Bao y mà vẫn được phong Trắc Phúc tấn trong chế độ đầu Thanh có thể do chế độ ['Thuộc nhân'; 属人] - tức các gia tộc chịu sự quản lý của một Thân vương hoàng tử. Dần dần, địa vị của Niên thị giảm xuống.
Vào ngày 12 tháng 3 năm Khang Hi thứ 54 (1715), Niên thị sinh con gái thứ tư của Dận Chân, nhưng không lâu sau, vào tháng 5 năm Khang Hi thứ 56 (1717), bà qua đời khi mới 2 tuổi. Đến ngày 25 tháng 5 năm Khang Hi thứ 59 (1720), bà sinh ra Phúc Nghi (福宜), con trai thứ 7 của Dận Chân (tính theo số con sinh ra, không kể những người đã mất sớm). Tuy nhiên, vào ngày 13 tháng 1 năm sau (1721), Phúc Nghi qua đời, khi mới 8 tháng tuổi.
Vào ngày 9 tháng 10 năm Khang Hi thứ 60 (1721), không lâu sau cái chết của Phúc Nghi, Niên thị sinh thêm một con trai tên Phúc Huệ (福惠), trước đây gọi là [Hoằng Thịnh; 弘晟]. Đây là con trai thứ 8 (tính theo số đếm lại thành thứ 7) của Dận Chân.
Quý phi của Ung Chính Đế
Vào ngày 13 tháng 11 năm Khang Hi thứ 61 (1722), tức ngày 20 tháng 12 dương lịch, Khang Hi Đế qua đời. Đến ngày 20 tháng 11 (27 tháng 12 dương lịch), Ung Thân vương Dận Chân lên ngôi và trở thành [Ung Chính Đế].
Vào năm Ung Chính thứ nhất (1723), ngày 14 tháng 2 (âm lịch), sau khi công bố việc phong Hoàng hậu Na Lạp thị, Hoàng đế ra chỉ định Niên thị, Trắc Phúc tấn, làm Quý phi, Lý thị làm Tề phi, và Nữu Hỗ Lộc thị làm Hi phi. Lúc này, gia tộc họ Niên được nhập vào Tương Hoàng kỳ của Hán Quân.
Cùng năm đó, vào ngày 10 tháng 5 (âm lịch), Quý phi Niên thị sinh ra Phúc Phái (福沛). Trong thời gian mang thai Phúc Phái, khi Khang Hi Đế đang chịu tang, tình hình rất căng thẳng. Có thể do áp lực và không khí tang lễ kéo dài đã ảnh hưởng đến sức khỏe của bà, khiến Phúc Phái không sống được lâu và qua đời chỉ sau một tháng. Khi được phong làm Quý phi, Niên thị đã gặp phải nhiều vấn đề về sức khỏe, không chỉ vì nhiều lần mang thai mà còn vì sự đau buồn trước sự ra đi của Phúc Phái.
Vào ngày 21 tháng 12 (âm lịch) cùng năm, việc sách phong được thực hiện với sự tham gia của Đại học sĩ Tung Chúc (嵩祝) làm Chính sứ và Lễ bộ Hữu Thị lang Tam Thái (三泰) làm Phó sứ.
Nội dung sách văn ghi lại:
“ |
朕惟起化璇闱,爰赖赞襄之职。协宣坤教,允推淑慎之资。聿考彝章,式崇位序。咨尔妃年氏,笃生令族,丕著芳声,赋质温良,持躬端肃。凛箴规于图史,克勤克俭,表仪范于珩璜,有典有则。曾仰承皇太后慈谕,以册宝封尔为贵妃。尔其时怀只敬,承庆泽之方新,益懋柔嘉衍鸿庥于有永。敬哉。 . Trẫm duy khởi hóa toàn vi, viên lại tán tương chi chức. Hiệp tuyên khôn giáo, duẫn thôi thục thận chi tư. Duật khảo di chương, thức sùng vị tự. Tư nhĩ Phi Niên thị, đốc sinh lệnh tộc, phi trứ phương thanh, phú chất ôn lương, trì cung đoan túc. Lẫm châm quy vu đồ sử, khắc cần khắc kiệm, biểu nghi phạm vu hành hoàng, hữu điển hữu tắc. Tằng ngưỡng thừa Hoàng thái hậu từ dụ, dĩ sách bảo phong nhĩ vi Quý phi. Nhĩ kỳ thời hoài chỉ kính, thừa khánh trạch chi phương tân, ích mậu nhu gia diễn hồng hưu vu hữu vĩnh. Kính tai. |
” |
— Sách văn tấn phong Quý phi Niên thị |
Lúc đó, Niên thị là phi tần duy nhất giữ danh hiệu Quý phi trong cung. Trong hệ thống hậu cung nhà Thanh, dưới Hoàng hậu là Hoàng quý phi, tiếp theo là Quý phi. Do không có Hoàng quý phi, vị trí của Niên thị chỉ thấp hơn Hoàng hậu Na Lạp thị. Trong khi đó, Trắc Phúc tấn Lý thị, người mẹ của Hoàng tử Hoằng Thời - con trai trưởng của Ung Chính Đế, dù có địa vị cao hơn Niên thị, cũng chỉ được phong làm Tề phi, ngang hàng với Cách cách Nữu Hỗ Lộc thị, phong Hi phi.
Dưới triều đại Hoàng Thái Cực, với niên hiệu Sùng Đức, Hoàng Thái Cực đã phong Hiếu Đoan Văn hoàng hậu và bốn phi tần: Thần phi Hải Lan Châu, Quý phi Na Mộc Chung, Thục phi Ba Đặc Mã Tảo và Trang phi Bố Mộc Bố Thái. Để chúc mừng, Hoàng Thái Cực đã tổ chức lễ [Khánh hạ; 慶賀] cho toàn triều. Trong dịp đó, các Công chúa, Vương phi và Mệnh phụ đều đến triều bái Hoàng hậu và các phi tần bằng nghi lễ [Tứ túc nhị quỵ nhị khấu lễ; 四肃二跪二叩礼]. Khi Niên thị được phong Quý phi dưới triều Ung Chính, do lễ phong hậu đã được tổ chức, bà cũng nhận được sự bái lạy từ các Công chúa, Thân vương Phúc tấn và các Mệnh phụ. Sau này, Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao thị cũng được hưởng ân điển tương tự, trở thành mẫu mực cho các Quý phi được phong cùng với lễ lập Hậu trong triều Thanh.
Vào năm thứ 3 (1725), tháng 8 (âm lịch), sau khi kết thúc thời gian tang lễ của Khang Hi Đế, triều đình tổ chức lễ gia viên nhằm tôn vinh việc sách lập Hoàng hậu. Dịp này cũng được dùng để chúc mừng Quý phi, người đã tham gia vào lễ lập Hậu. Tuy nhiên, Ung Chính Đế đã từ chối và cho rằng chỉ có Hoàng hậu mới được hưởng vinh dự chúc mừng, còn Quý phi chỉ là tần phi không có quyền hưởng thụ. Điều này cho thấy Ung Chính Đế dù yêu quý Niên thị nhưng vẫn duy trì sự tôn trọng đối với Hoàng hậu Na Lạp thị. Niên thị không hài lòng với quyết định này, nhưng Ung Chính Đế kiên quyết không thay đổi.
Qua đời đầy bất hạnh
Phong tặng Hoàng quý phi
Vào tháng 11 năm Ung Chính thứ 3 (1725, âm lịch), Quý phi Niên thị mắc bệnh nặng. Trong khi đó, Ung Chính Đế phải rời kinh thành để đi lễ tế ở Cảnh lăng, không thể ở bên Quý phi. Sau khi hoàn tất chuyến đi xa và trở về kinh thành, Hoàng đế chuẩn bị cho lễ Đông chí tế thiên đại điển, đồng thời rất quan tâm đến tình trạng sức khỏe của Quý phi.
Ngày 15 tháng 11 (âm lịch) cùng năm, Ung Chính Đế đã ra chỉ dụ phong tặng Quý phi Niên thị lên làm Hoàng quý phi. Trong chỉ dụ, Hoàng đế ghi rõ:
- [贵妃年氏,秉性柔嘉,持躬淑慎。朕在藩邸时,事圳克尽敬慎,在皇后前小心恭谨,驭下宽厚平和。皇考嘉其端庄贵重封为亲王侧妃。朕在即位后,贵妃于皇考,皇妣大事悉皆尽心力尽礼,实能赞襄内政。妃素病弱,三年以来朕办理机务,宵旰不遑,未及留心商确诊治,凡方药之事悉付医家,以致耽延日久。目今渐次沉重,朕心深为轸念。贵妃着封为皇贵妃,倘事一出,一切礼仪俱照皇贵妃行。]
- Quý phi Niên thị vốn có bản tính hiền hậu, tôn trọng và cẩn thận. Khi Trẫm còn ở Phiên để, bà luôn hành xử cung kính và thận trọng, trước mặt Hoàng hậu thì luôn nhún nhường và khoan dung với mọi người. Hoàng khảo đã thấy sự đoan trang của bà, nên đã phong bà làm Thân vương Trắc phi. Khi Trẫm lên ngôi, Quý phi đã tận tâm và hiếu lễ đối với Hoàng khảo và Hoàng tỉ, thật sự đã góp phần vào công việc Nội chính. Dù bà vốn bị bệnh, ba năm qua Trẫm bận rộn công vụ, không thể chăm sóc bà đúng mức, tất cả thuốc men đều giao cho Ngự y, nhưng tình hình không cải thiện. Hiện tại bệnh tình đã nặng, Trẫm rất lo lắng. Do vậy, Quý phi nên được phong làm Hoàng quý phi. Các nghi lễ và quy định sẽ theo đúng như lễ của Hoàng quý phi.
Ngày 18 tháng 11 cùng năm, sau khi kết thúc các giao tiếp tại phủ, Ung Chính Đế đã miễn triều hạ tại Thái Hòa điện và lập tức về Viên Minh Viên bằng xe ngựa. Trong 5 ngày tiếp theo, ngoại trừ ngày 19 khi phát chỉ dụ về thuế cho các quan tỉnh và miễn thuế cho 4 huyện Giang Nam, các ghi chép trong Khởi cư chú (起居注) không cho thấy bất kỳ công văn nào mà Ung Chính Đế xử lý, chứng tỏ ông đã hoàn toàn tập trung vào việc chăm sóc sức khỏe của Hoàng quý phi.
An táng theo nghi thức trọng thể
Ngày 23 tháng 11 (âm lịch), Hoàng quý phi Niên thị qua đời tại Viên Minh Viên và được truy phong thụy hiệu là Đôn Túc Hoàng quý phi (敦肅皇貴妃).
Trong lịch sử nhà Thanh, không tính Hoàng quý phi Đổng Ngạc thị của Thuận Trị Đế được truy phong làm Hoàng hậu, thì Niên thị là Hoàng quý phi đầu tiên qua đời với tư cách đó. Do vậy, tang lễ của bà trở thành mẫu mực cho các tang lễ của Hoàng quý phi sau này. Ngày Đôn Túc Hoàng quý phi qua đời, Ung Chính Đế đã tạm ngừng triều chính 5 ngày để tổ chức lễ tang trọng thể, đây là một nghi lễ chính thức dành cho một Hoàng quý phi của triều Thanh. Trong suốt quá trình làm tang lễ, Ung Chính Đế thể hiện sự đau lòng sâu sắc.
Trong tang lễ, Thành Thân vương Dận Chỉ, Liêm Thân vương Dận Tự và các Tướng quân, cùng các quan viên từ cấp Công - Hầu - Bá đến Tứ phẩm đều có mặt đầy đủ trong 3 ngày để khóc tang. Lễ bộ quan viên lần đầu tiên gặp tang lễ của Hoàng quý phi, bị chỉ trích vì làm nghi thức không đầy đủ và bị xử phạt cách chức hoặc giáng bậc 2 cấp. Các nghi lễ và lễ truy tặng trong tang lễ của Đôn Túc Hoàng quý phi, từ việc dâng cáo Thái Miếu đến việc an táng tại Phụng Tiên điện, sau này trở thành quy chuẩn cho tang lễ và truy tặng của Tuệ Hiền Hoàng quý phi và Triết Mẫn Hoàng quý phi. Vì sự nghiêm trọng của tang lễ, Ung Chính Đế còn ra chỉ dụ tạm hoãn phiên xử đối với Niên Canh Nghiêu.
Trong số các con của Đôn Túc Hoàng quý phi, chỉ có Phúc Huệ sống lâu hơn cả. Ung Chính Đế rất yêu quý Phúc Huệ vì là cốt nhục duy nhất của Niên thị. Tuy nhiên, vào năm Ung Chính thứ 6 (1728), Phúc Huệ cũng qua đời sớm, và Ung Chính Đế đã đặc cách tổ chức lễ tang theo nghi thức Thân vương để thể hiện sự thương tiếc. Đến thời Càn Long, Hoàng đế đã nói về Phúc Huệ: [“Dụ, Trẫm huynh Đại a ca, nãi Hoàng tỷ Hiếu Kính Hoàng hậu sở sinh, Trẫm đệ Bát A ca, tố vì Hoàng khảo sở chung ái, đương nhật tằng dĩ Thân vương cải táng; 谕、朕兄大阿哥。乃皇妣孝敬皇后所生。朕弟八阿哥。素为皇考所钟爱当日曾以亲王殡葬], chứng tỏ tình cảm đặc biệt của Ung Chính Đế dành cho Phúc Huệ trong Hoàng tộc.
Vào năm Càn Long thứ 2 (1737), tháng 3, kim quan của Ung Chính Đế và Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu đã được đưa vào địa cung của Thái lăng (泰陵), thuộc Thanh Tây lăng. Đôn Túc Hoàng quý phi cũng được an táng cùng Đế-Hậu trong địa cung này.
Hậu duệ
Đôn Túc Hoàng quý phi Niên thị đã sinh hạ tổng cộng ba con trai và một con gái.
- Hoàng tứ nữ [皇四女; 1715 - 1717], con gái thứ tư của Ung Chính Đế, sinh ngày 12 tháng 3 năm Khang Hi thứ 54, qua đời vào tháng 5 năm Khang Hi thứ 56.
- Phúc Nghi [福宜; 1720 - 1721], con trai thứ 7 của Ung Chính Đế, tuy nhiên do qua đời sớm nên không được thường xét thứ tự. Sinh ngày 25 tháng 5 năm Khang Hi thứ 59, mất vào ngày 13 tháng 1 năm Khang Hi thứ 60, chỉ sống được 8 tháng.
- Phúc Huệ [福惠; 1721 - 1728], tên trước đây là [Hoằng Thịnh; 弘晟], con trai thứ 6 trong số các con trai trưởng thành của Ung Chính Đế, nhưng thực ra là vị trí thứ 8 trong các con của ông. Sinh ngày 9 tháng 10 năm Khang Hi thứ 60, mất vào ngày 9 tháng 9 năm Ung Chính thứ 6. Được truy tặng [Hòa Thạc Hoài Thân vương; 和碩怀親王].
- Phúc Phái [福沛; 1723], con trai thứ 9 của Ung Chính Đế, nhưng do mất sớm nên không được thường xét thứ tự. Sinh ngày 10 tháng 5 năm Ung Chính nguyên niên, qua đời khoảng 1 tháng sau đó.
Phim ảnh
Năm | Phim ảnh truyền hình | Diễn viên | Thủ vai nhân vật |
1997 | 《Giang hồ kỳ hiệp truyện》 | Bào Chính Phương | Niên Nhuận Ngọc |
1997 | 《Vương triều Ung Chính》 | Thường Lâm | Niên Thu Nguyệt |
1999 | 《Ung Chính, Tiểu Điệp, Niên Canh Nghiêu》 | Đồ Thiện Ni | Niên Tiểu Điệp |
2003 | 《Thích hổ》 | La Hải Quỳnh | Niên Tiểu Bình |
2010 | 《Cung tỏa tâm ngọc》 | Đồng Lệ Á | Niên Tố Ngôn |
2011 | 《Bộ bộ kinh tâm》 | Lục Mai Phương | Niên Quý phi |
2011 | 《Hậu cung Chân Hoàn truyện》 | Tưởng Hân | Niên Thế Lan |
2014 | 《Thực vi nô》 | Hồ Định Hân | Niên Nhược Bích |
2017 | 《Họa lạc cung đình thác lưu niên》 | Lý Sa Mân Tử | Niên Thù Viên |
- Các phi tần trong hậu cung nhà Thanh
- Triều đại Ung Chính
- Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu
- Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu
Ghi chú
- Thanh sử cảo - Những câu chuyện về phi tần
- Thanh thực lục - Những sự kiện dưới triều Thế Tông
- Hoàng triều thông điển - Tài liệu về các triều đại
- Tập hợp thư tịch của các nhà truyền giáo Trung Quốc: Hồi ức Trung Quốc - Quyển 3