Tên đầy đủ | Rafael Nadal Parera |
---|---|
Quốc tịch | Tây Ban Nha |
Nơi cư trú | Manacor, Mallorca |
Sinh | 3 tháng 6, 1986 (38 tuổi) Manacor, Mallorca, Tây Ban Nha |
Chiều cao | 1,85 m (6 ft 1 in) |
Lên chuyên nghiệp | 2001 |
Tay thuận | Thuận tay trái (trái 2 tay) |
Huấn luyện viên | Toni Nadal (2005–2017) Francisco Roig (2005–) Carlos Moyá (2016–) Marc López (2021–) |
Tiền thưởng | 130,681,472 US$ (thứ 3 trong Kỷ nguyên Mở) |
Đánh đơn | |
Thắng/Thua | 1068–220 (82.92%) |
Số danh hiệu | 92 (xếp thứ 4 trong Kỷ nguyên mở) |
Thứ hạng cao nhất | 1 (18 tháng 8 năm 2008) |
Thứ hạng hiện tại | 242 (23 tháng 10 năm 2023)) |
Thành tích đánh đơn Gland Slam | |
Úc Mở rộng | Vô địch (2009, 2022) |
Pháp mở rộng | Vô địch (2005, 2006, 2007, 2008, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2017, 2018, 2019, 2020, 2022) |
Wimbledon | Vô địch (2008, 2010) |
Mỹ Mở rộng | Vô địch (2010, 2013, 2017, 2019) |
Các giải khác | |
ATP Tour Finals | CK (2010, 2013) |
Thế vận hội | Huy chương vàng (2008) |
Đánh đôi | |
Thắng/Thua | 131–72 |
Số danh hiệu | 11 |
Thứ hạng cao nhất | 26 (8 tháng 8 năm 2005) |
Thứ hạng hiện tại | 131 (12 tháng 6 năm 2017) |
Thành tích đánh đôi Gland Slam | |
Úc Mở rộng | V3 (2004, 2005) |
Wimbledon | V2 (2005) |
Mỹ Mở rộng | BK (2004) |
Giải đồng đội | |
Davis Cup | VĐ (2004, 2008, 2009, 2011, 2019) |
Thành tích huy chương Thế vận hội | ||
---|---|---|
Đại diện cho Tây Ban Nha | ||
Quần vợt | ||
Thế vận hội Mùa hè | ||
Bắc Kinh 2008 | Đơn nam | |
Rio de Janeiro 2016 | Đôi nam |
Rafael Nadal Parera (IPA: [rafa'el na'ðal]), sinh ngày 3 tháng 6 năm 1986 tại Manacor, Mallorca, thường được gọi là Rafa, là một tay vợt chuyên nghiệp nổi tiếng người Tây Ban Nha.
Nadal được coi là một trong những tay vợt vĩ đại nhất trong lịch sử. Anh đã giành 22 danh hiệu Grand Slam ở nội dung đánh đơn (chỉ đứng sau Novak Djokovic với 24 danh hiệu), cùng với 2 huy chương vàng Olympic: đơn nam tại Olympic 2008 và đôi nam tại Olympic 2016, 36 chức vô địch ATP World Tour Masters 1000, 21 chức vô địch ATP Tour 500, 5 chức vô địch Davis Cup cùng đội tuyển Tây Ban Nha vào các năm 2004, 2008, 2009, 2011 và 2019, và nhiều danh hiệu khác.
Sau khi giành chức vô địch Mỹ Mở rộng 2010, Nadal trở thành tay vợt thứ 7 trong lịch sử đạt được tất cả các danh hiệu Grand Slam và là người trẻ nhất trong Kỷ nguyên Mở rộng làm được điều này.
Nadal là tay vợt thứ hai, sau Novak Djokovic, trong Kỷ nguyên Mở rộng đạt được 'Cú đúp Grand Slam sự nghiệp' (thắng mỗi giải Grand Slam ít nhất hai lần) với chiến thắng tại Giải quần vợt Úc Mở rộng 2022.
Những chiến thắng ấn tượng trên mặt sân đất nện đã giúp Nadal được vinh danh là 'Ông vua sân đất nện' và được xem là tay vợt xuất sắc nhất trên mặt sân này trong lịch sử. Nadal giữ kỷ lục với 14 danh hiệu Pháp Mở rộng (Roland Garros) từ năm 2005-2008, 2010-2014, 2017-2020, và lần gần nhất là năm 2022. Với thành tích này, anh là người có nhiều lần vô địch một Grand Slam nhất trong lịch sử, vượt qua Roger Federer với 8 lần vô địch Wimbledon và Novak Djokovic với 10 lần vô địch Úc Mở rộng. Theo bảng xếp hạng ATP ngày 13 tháng 6 năm 2022, Nadal đứng số 1 thế giới trong 209 tuần, kém Federer 310 tuần và Djokovic 373 tuần. Nadal đã giữ vị trí số 2 liên tục trong 160 tuần sau Federer trước khi chiếm lấy vị trí số 1 từ ngày 18 tháng 8 năm 2008 đến ngày 5 tháng 7 năm 2009. Sau đó, anh trở lại vị trí số 1 vào ngày 7 tháng 6 năm 2010 và giữ vững đến ngày 3 tháng 7 năm 2011. Đến nay, Nadal đã kết thúc năm ở vị trí số 1 thế giới 5 lần (2008, 2010, 2013, 2017 và 2019). Anh là một trong hai tay vợt, sau Rod Laver, giành được 3 danh hiệu Grand Slam liên tiếp trong cùng một năm (Pháp Mở rộng, Wimbledon và Mỹ Mở rộng 2010).
Vào năm 2008, Nadal được trao giải thưởng thể thao Prince of Asturias nhờ thành tích xuất sắc của mình. Ngày 21 tháng 11 năm 2010, tại London, Nadal lần đầu tiên nhận giải thưởng Stefan Edberg Sportsmanship. Vào ngày 7 tháng 2 năm 2011, Nadal vinh dự nhận giải thưởng Laureus World Sportsman of the Year lần đầu tiên trong sự nghiệp.
Thời niên thiếu
Nadal sinh ra tại Manacor, Mallorca, con của Sebastian và Ana Maria; anh có một cô em gái tên Maria Isabel. Cha anh sở hữu một nhà hàng và xưởng làm kính, trong khi mẹ anh là nội trợ. Người chú Miguel Ángel Nadal là một cầu thủ bóng đá đã nghỉ hưu, từng thi đấu cho RCD Mallorca, FC Barcelona và đội tuyển Tây Ban Nha. Nadal vẫn là một cổ động viên trung thành của RCD Mallorca và Real Madrid. Một chú khác, Toni Nadal, là người đã dạy Nadal những bài học quần vợt đầu tiên khi anh 3 tuổi. Ông là HLV của Nadal cho đến năm 2017 và luôn đồng hành cùng anh trong các giải đấu. (Carlos Moya là HLV của Nadal từ năm 2017 đến nay).
Mặc dù thuận tay trái, Nadal là người sử dụng cả hai tay. Khi còn nhỏ, Toni Nadal nhận thấy Nadal đánh bóng bằng cả hai tay và nhắc nhở rằng không ai đánh bóng như vậy. Sau đó, Nadal chọn tay trái làm tay chính khi chơi quần vợt. Tuy nhiên, ngoài quần vợt, anh dùng tay phải cho tất cả các hoạt động khác. Khi 12 tuổi, Nadal thắng giải quần vợt U12 trong vùng và cũng là một cầu thủ bóng đá triển vọng. Cha của Nadal đã yêu cầu anh quyết định giữa quần vợt và bóng đá, và cuối cùng anh chọn theo đuổi quần vợt. Dù Nadal cho rằng mình cũng chơi bóng đá tốt, quần vợt mới là môn thể thao anh thực sự xuất sắc.
Khi Nadal mới 14 tuổi, Liên đoàn Tennis Tây Ban Nha đề xuất anh chuyển đến Barcelona để tập luyện tốt hơn. Tuy nhiên, gia đình Nadal từ chối vì Toni Nadal khẳng định, 'Tôi không tin rằng bạn cần phải ra Mỹ hoặc nơi khác để trở thành tay vợt giỏi. Bạn hoàn toàn có thể đạt được điều đó ngay tại quê hương.' Quyết định này cũng có nghĩa là Nadal sẽ nhận ít sự hỗ trợ tài chính hơn. Vào tháng 5 năm 2001, khi Nadal 14 tuổi, anh đã có cơ hội thi đấu giao hữu trên sân đất nện với tay vợt nổi tiếng Pat Cash. Mặc dù Cash ban đầu dự kiến đối đầu với Boris Becker, nhưng anh đã phải đối mặt với Nadal và cuối cùng thất bại sát nút.
Nadal đã đạt được nhiều thành tích ấn tượng khi còn thi đấu ở các giải trẻ. Ở tuổi 16, anh lọt vào bán kết giải Wimbledon trẻ và cùng đội tuyển Tây Ban Nha giành chiến thắng tại giải Davis Cup trẻ. Khi 17 tuổi, Nadal đã gia nhập top 50 tay vợt hàng đầu thế giới. Năm 2003, anh nhận giải Tay vợt triển vọng của ATP. Hình ảnh Nadal cắn cúp, đặc trưng nổi bật của anh, cũng đã xuất hiện từ khi anh còn rất trẻ.
Sự nghiệp quần vợt
2001-2004: Khởi đầu sự nghiệp quần vợt.
Năm 2002, ở tuổi 15 và xếp hạng 762 thế giới, Nadal đã có chiến thắng đầu tiên tại ATP, đánh bại Ramon Delgado ở Mallorca, trở thành tay vợt thứ 9 trong Kỷ nguyên Mở rộng thắng một trận đấu ATP trước sinh nhật lần thứ 16 của mình.
Năm 2003, Nadal đã trở thành tay vợt trẻ thứ hai trong lịch sử lọt vào top 100 thế giới. Anh kết thúc năm 2003 với hạng 49 và giành được hai danh hiệu Challenger. Tại Wimbledon lần đầu tiên tham dự, ở tuổi 17, Nadal đã trở thành tay vợt trẻ nhất lọt vào vòng 3 giải đấu này kể từ năm 1984, khi Boris Becker làm điều đó ở tuổi 16.
Năm 2004, Nadal đã có lần đầu đối đầu với Federer tại Miami Masters, mở đầu cho cuộc chiến giữa hai đối thủ kỳ phùng. Cuộc đối đầu này sau này được xem là một trong những cuộc đối đầu vĩ đại nhất trong lịch sử quần vợt. Khi trận đấu diễn ra, Federer đã là tay vợt số 1 thế giới, còn Nadal vẫn còn là một tài năng đang chờ được chứng minh. Tuy nhiên, Nadal đã tạo ra cú sốc lớn khi chiến thắng và trở thành một trong 6 tay vợt đánh bại Federer trong năm đó (cùng Tim Henman, Albert Costa, Gustavo Kuerten, Dominik Hrbatý và Tomáš Berdych). Thật tiếc là Nadal phải bỏ lỡ phần lớn mùa giải sân đất nện vì chấn thương. Trong năm đó, Nadal cũng trở thành tay vợt trẻ nhất trong lịch sử giành chiến thắng trong một trận đấu đơn tại chung kết Davis Cup, đánh bại tay vợt số 2 thế giới Andy Roddick và mang về chức vô địch cho đội Tây Ban Nha. Kết thúc mùa giải, anh xếp thứ 51 thế giới.
2005: Danh hiệu Roland Garros đầu tiên
Năm 2005 chứng kiến sự tiến bộ vượt bậc của Nadal. Tại Úc Mở Rộng, anh vào đến vòng 4. Hai tháng sau, Nadal lọt vào trận chung kết Miami Masters, dù chỉ thiếu 2 điểm để giành chức vô địch – nhưng cuối cùng thất bại trong trận đấu 5 ván trước tay vợt số 1 thế giới Roger Federer.
Sau đó, Nadal đã thống trị mùa giải sân đất nện với chuỗi 24 trận thắng liên tiếp, trở thành chuỗi thắng dài nhất của một tay vợt tuổi teen, vượt qua 23 trận của Andre Agassi năm 1988. Anh giành chiến thắng tại 2 sự kiện ATP Master Series trong năm là Monte Carlo và Rome (đều đánh bại Guillermo Coria trong trận chung kết). Nhờ thành tích ấn tượng này, vào tháng 5 năm 2005, Nadal lọt vào top 5 tay vợt hàng đầu và được đánh giá cao trước khi bước vào Roland Garros.
Lần đầu tiên tham dự giải Pháp Mở rộng, một trong những giải đấu yêu thích nhất của mình, Nadal đã gây ấn tượng mạnh khi đánh bại Sebastien Grosjean và Richard Gasquet, hai tay vợt được kỳ vọng của nước Pháp. Vào ngày sinh nhật 19 tuổi, anh đã loại Roger Federer ở bán kết, không cho tay vợt người Thụy Sĩ có cơ hội giành chức vô địch Grand Slam. Hai ngày sau, Nadal trở thành nhà vô địch Pháp Mở rộng trẻ thứ 4 trong lịch sử, sau khi đánh bại Mariano Puerta trong trận chung kết. Anh là tay vợt thứ hai, sau Mats Wilander, giành chiến thắng ngay lần đầu tham dự giải này. Nadal cũng là tay vợt vị thành niên đầu tiên giành ít nhất 6 danh hiệu Grand Slam kể từ năm 1988 khi Andre Agassi đạt được thành tích này ở tuổi 18.
Ba ngày sau khi đăng quang, Nadal đã phải nhận thất bại đầu tiên khi để thua tay vợt người Đức Alexander Waske tại vòng 1 giải Halle (sân cỏ). Thất bại tiếp theo của anh đến tại vòng 2 giải Wimbledon, khi bị Gilles Muller đến từ Luxembourg đánh bại.
Nadal khởi đầu mùa giải trên mặt sân cứng bằng chiến thắng trước Andre Agassi tại chung kết Canada Masters. Dù được xếp hạt giống tại Mỹ Mở rộng, anh đã để thua James Blake trong 4 ván ở vòng 3. Trước mùa giải sân cứng Bắc Mỹ, Nadal còn giành thêm 2 danh hiệu trên sân đất nện. Tháng 9, anh đánh bại Guillermo Coria tại giải Trung Quốc Mở rộng và tháng 10, anh giành chiến thắng tại Madrid Masters sau khi vượt qua Ivan Ljubičić.
Nadal bị chấn thương bàn chân nên không thể tham dự giải Tennis Masters Cup vào cuối năm, và chấn thương kéo dài đến đầu năm 2006, buộc anh phải bỏ giải Úc Mở rộng.
Kết thúc năm 2005, Nadal đã giành được 11 danh hiệu ATP, trong đó có 4 Master Series, ngang bằng với tay vợt số 1 Roger Federer. Anh có 79 trận thắng, chỉ kém 2 trận so với 81 trận của Federer. Trong số đó, 8 danh hiệu của Nadal là trên mặt sân đất nện và phần còn lại trên sân cứng. Nadal đã vươn lên vị trí số 2 thế giới và giành giải Tay vợt tiến bộ nhất năm của ATP.
2006: Lần thứ hai giành Roland Garros và lần đầu tiên lọt vào chung kết Wimbledon.
Nadal không tham dự giải Úc Mở rộng do chấn thương chân. Đến tháng 2, anh để thua ở bán kết giải Open 13 tại Marseille. Cuộc đua giữa Nadal và Roger Federer tiếp tục gay cấn trong năm 2006. Tháng 3, Nadal đã đánh bại Federer trong trận chung kết giải Dubai với tỉ số 2-6, 6-4, 6-4. Tuy nhiên, anh không có thêm danh hiệu nào ở mùa giải sân cứng mùa xuân.
Trên mặt sân đất nện, Nadal duy trì phong độ xuất sắc khi giành chiến thắng ở mọi giải đấu tham dự với 24 trận thắng liên tiếp. Anh vượt qua Federer một lần nữa tại Monte Carlo Masters với tỷ số 6-2, 6-7, 6-3, 7-6. Sau đó, Nadal thắng Tommy Robredo tại Barcelona và tiếp tục chiến thắng Federer trong trận chung kết Rome Masters với tỷ số 6-7, 7-6, 6-4, 6-2, 7-6. Với thành tích này, Nadal đã ngang bằng kỷ lục 16 danh hiệu ATP của Björn Borg khi còn là thiếu niên.
Chiến thắng ở vòng 1 Pháp Mở rộng đã giúp Nadal phá vỡ kỷ lục 53 trận thắng liên tiếp trên mặt sân đất nện của Guillermo Vilas. Nadal nhận một chiếc cúp hình sân đất nện từ chính Vilas. Dù Vilas không công nhận kỷ lục của Nadal vượt trội hơn thành tích của mình, nhưng trận chung kết Pháp Mở rộng giữa Federer và Nadal thu hút sự chú ý lớn. Federer cần danh hiệu này để hoàn thành Career Grand Slam, còn Nadal cần bảo vệ chức vô địch và duy trì ưu thế đối đầu. Nadal dẫn trước 2-1 và nắm quyền giao bóng để kết thúc trận đấu ở set 4, nhưng Federer đã bẻ game và kéo trận đấu vào tie-break. Nadal chiến thắng trong loạt tie-break, trở thành người đầu tiên đánh bại Federer tại một trận chung kết Grand Slam. Trong bài phát biểu sau trận, sự nhầm lẫn trong thông dịch khiến mọi người nghĩ rằng Nadal đang tự ca ngợi mình, dẫn đến sự chế giễu từ đám đông.
Trong mùa giải sân cỏ, Nadal không thể vượt qua Lleyton Hewitt tại giải đấu ở Queen's Club, chuẩn bị cho Wimbledon. Ở giải Wimbledon, anh vượt qua huyền thoại Andre Agassi tại vòng 3, đây cũng là lần cuối cùng Agassi thi đấu tại giải này. Nadal không để thua set nào trong 3 trận kế tiếp và vào chung kết đối đầu với Federer, người đã vô địch ba năm liên tiếp. Nadal trở thành tay vợt người Tây Ban Nha đầu tiên vào chung kết Wimbledon kể từ Manuel Santana năm 1966, nhưng Federer đã chiến thắng sau 4 set với tỷ số 6–0, 7–6(5), 6(2)–7, 6–3, lần thứ 4 liên tiếp đăng quang.
Để chuẩn bị cho US Open, Nadal quay lại thi đấu trên mặt sân cứng và tham gia hai giải Masters Series là Rogers Cup ở Toronto và Western & Southern Financial Group Masters ở Cincinnati, Ohio, nhưng đều bị loại sớm. Tại giải Mỹ Mở rộng, dù được xếp hạt giống số 2, anh đã bị loại ở tứ kết bởi Mikhail Youzhny sau 4 set.
Nadal chỉ tham dự thêm 3 giải đấu nữa trong năm. Tại Stockholm Open, anh gây bất ngờ khi bị tay vợt hạng 690 thế giới, Joachim Johansson, loại ở vòng 2. Tuần sau, anh thua Tomáš Berdych ở tứ kết giải Mutua Madrileña Masters tại Madrid. Lần đầu tiên tham dự giải đấu tổng kết năm dành cho 8 tay vợt xuất sắc nhất (lúc đó gọi là Tennis Masters Cup), Nadal thua James Blake trong vòng bảng nhưng thắng Nikolay Davydenko và Robredo để vào bán kết, nơi anh tiếp tục để thua Federer với tỷ số 6–4, 7–5.
Nadal trở thành tay vợt đầu tiên kể từ Andre Agassi vào các mùa 1994-1995 kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 2 hai năm liên tiếp.
2007: Lần thứ ba vô địch Roland Garros và thất bại tại chung kết Wimbledon năm thứ hai liên tiếp.
Nadal bắt đầu năm 2007 với việc lọt vào bán kết Chennai Open ở Ấn Độ. Sau đó, tại giải Sydney, anh phải rút lui ở trận đấu đầu tiên vì chấn thương háng. Ở giải Úc Mở rộng, anh đánh bại Andy Murray để vào tứ kết nhưng thất bại trước Fernando Gonzalez, á quân của giải. Sau Úc Mở rộng, Nadal tiếp tục tham dự 3 giải sân cứng khác, giành chiến thắng tại Indian Wells Masters và bị loại ở tứ kết Dubai và Miami Masters.
Trở lại mặt sân đất nện, Nadal đánh bại Roger Federer 6-4, 6-4 trong trận chung kết Monte Carlo Masters, giành chức vô địch giải này lần thứ ba liên tiếp, thành tích đầu tiên kể từ Illie Năstase vào năm 1971-1973. Nadal tiếp tục chiến thắng tại Open Seat ở Barcelona và Rome Masters. Tuy nhiên, anh thua Federer 2-6, 6-2, 6-0 tại Hamburg Masters, chấm dứt chuỗi 81 trận bất bại trên mặt sân đất nện, thành tích dài nhất của một tay vợt nam trong kỷ nguyên Mở rộng.
Tuy nhiên, Nadal nhanh chóng phục hồi tại Pháp Mở rộng, đánh bại chính Roger Federer trong trận chung kết để giành danh hiệu lần thứ ba liên tiếp. Với chiến thắng này, anh trở thành tay vợt đầu tiên kể từ Bjorn Borg (1978-1981) giành 3 chức vô địch Pháp Mở rộng liên tiếp.
Để chuẩn bị cho Wimbledon, Nadal thi đấu tại Queen's Club nhưng thua Nicolas Mahut ở tứ kết. Tại Wimbledon, anh lần thứ hai lọt vào chung kết và đối đầu với Federer. Trên đường vào chung kết, Nadal vượt qua Robin Soderling 6-4, 6-4, 6(7)-7, 4-6, 7-5 (trận đấu bị hoãn vì mưa), Mikhail Youhzny 4-6, 3-6, 6-2, 6-2, 6-2, Tomáš Berdych 7-6(1), 6-4, 6-2 ở tứ kết, và Novak Djokovic (bỏ cuộc) ở bán kết. Ở chung kết, Nadal thua ván đầu 7-6(7), thắng ván hai 4-6, rồi để thua ván ba 7-6(3) trong loạt tie-break. Khi dẫn trước 4-1 ở ván 4, anh phải rời sân để băng đầu gối, nhưng vẫn thắng 6-2. Ở ván quyết định thứ năm, Nadal thua 6-2.
Sau trận đấu này, thành tích đối đầu giữa Federer và Nadal là 5-8. Nadal thắng 6 trận và thua 1 trên mặt sân đất nện; sân cứng hòa 2-2; và thua cả 2 trận trên sân cỏ.
Vào tháng 7, Nadal giành thêm một danh hiệu đất nện tại Mercedes Cup (Stuttgart), đây cũng là danh hiệu cuối cùng của anh trong năm. Mùa giải sân cứng ở Bắc Mỹ của anh không thành công như mong đợi. Nadal bị loại ở bán kết Rogers Cup và vòng 1 Western & Southern Financial Group Masters (hai giải chuẩn bị cho US Open). Tại US Open, Nadal bị loại sớm bởi David Ferrer ở vòng 4.
Sau một tháng nghỉ ngơi, Nadal tiếp tục tham gia các giải Mutua Madrileña Masters ở Madrid và BNP Paribas Masters ở Paris, nhưng đều bị David Nalbandian đánh bại ở tứ kết và chung kết. Tại giải đấu cuối năm dành cho 8 tay vợt xuất sắc nhất, Nadal vào bán kết nhưng thua Federer nhanh chóng với tỉ số 6–4, 6–1.
Chấn thương ở chung kết Wimbledon đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến Nadal trong nửa cuối mùa giải. Có tin đồn cho rằng chấn thương chân năm 2005 gây ra những vấn đề kéo dài, nhưng Nadal sau đó đã phủ nhận. Anh kết thúc năm thứ ba liên tiếp ở vị trí số 2 thế giới.
Trận đấu trên các mặt sân
Vào ngày 2 tháng 5 năm 2007, một trận đấu biểu diễn đặc biệt được tổ chức tại đảo Mallorca với mặt sân chia đôi: một nửa là cỏ và nửa còn lại là đất nện. Sân đấu này tiêu tốn 1,63 triệu bảng và mất 19 ngày để xây dựng. Lúc đó, Federer là tay vợt thống trị trên mặt sân cỏ với 48 trận thắng liên tiếp, trong khi Nadal là vua của mặt sân đất nện với 72 trận thắng. Nadal đã giành chiến thắng với tỷ số 7–5, 4–6, 7–6 (12–10). Federer có số điểm ngang nhau trên cả hai mặt sân, còn Nadal ít điểm hơn Federer 7 điểm trên sân cỏ nhưng nhiều hơn 12 điểm trên sân đất nện.
2008: Lên vị trí số 1 thế giới lần đầu, giành huy chương vàng Olympics Bắc Kinh và thành công tại Wimbledon.
Năm 2008 đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của Nadal. Từ một tay vợt chỉ nổi bật trên sân đất nện, Nadal đã thành công vang dội trên mặt sân cỏ, nơi Federer đã chiếm ưu thế nhiều năm qua. Điều này cũng đồng nghĩa với việc Nadal lần đầu tiên soán ngôi Federer để trở thành số 1 thế giới.
Nadal bắt đầu mùa giải bằng việc tham gia giải Chennai Mở rộng với tư cách hạt giống số 1. Tại bán kết, anh vượt qua Carlos Moya trong trận đấu kéo dài 3 giờ 54 phút với tỉ số 6-7(3), 7-6(8), 7-6(1). Trận đấu này đã san bằng kỷ lục cho trận đấu 3 set dài nhất trong lịch sử ATP, trước đây thuộc về Andrei Chersakov và Andrea Gaudenzi. Trong trận chung kết, Nadal thất bại trước Mikhail Youzhny với tỷ số 6-0, 6-1.
Tại Úc Mở rộng, Nadal vượt qua Jarkko Nieminen ở tứ kết, lần đầu tiên vào bán kết trong sự nghiệp. Tuy nhiên, anh đã thất bại trước Jo-Wilfried Tsonga 6-2, 6-3, 6-2, dù không thua set nào trong năm trận trước đó. Tiếp đó, tại Rotterdam, Nadal thua Andreas Seppi 3-6, 6-3, 6-4 ở vòng hai. Tại giải Dubai Tennis Championships, Nadal vào tứ kết nhưng để thua Andy Roddick 7-6, 6-2. Tại Pacific Life Open, Nadal, đương kim vô địch, bị Novak Djokovic đánh bại 6-2, 6-3 ở bán kết sau khi vượt qua Jo-Wilfried Tsonga và James Blake. Tại Sony Ericsson Open, Nadal thua Nikolay Davydenko 6-4, 6-2 trong trận chung kết.
Trong mùa giải sân đất nện, Nadal bắt đầu bằng việc bảo vệ thành công chức vô địch Monte Carlo Masters lần thứ tư liên tiếp với chiến thắng 7-5, 7-5 trước Roger Federer. Anh cũng vô địch nội dung đôi cùng Tommy Robredo với tỷ số 6-3, 6-3, 6-2. Nadal là tay vợt thứ hai trong lịch sử giành cả hai danh hiệu đơn và đôi trong một giải Masters Series, sau Jim Courier tại Indian Wells 1991. Anh tiếp tục chiến thắng tại Barcelona, cũng là lần thứ tư liên tiếp. Tại Rome Master, Nadal không thể bảo vệ danh hiệu khi thua Ferrero 5-7, 1-6. Tuy nhiên, ở Hamburg Masters, Nadal đánh bại Djokovic 7-5, 2-6, 6-2 trong trận đấu kéo dài hơn ba giờ. Ngày 18 tháng 5, Nadal giành chức vô địch Hamburg Masters khi đánh bại Federer 7-5, 6-7, 6-3 sau khi bị dẫn 5-1 ở set đầu. Anh trở thành tay vợt thứ ba giành cả ba danh hiệu Masters Series trên sân đất nện: Monte Carlo, Hamburg, và Rome, cùng với Gustavo Kuerten và Marcelo Rios.
Tại giải Pháp Mở rộng, Nadal lần lượt đánh bại Thomas Bellucci 7-5, 6-3, 6-1; Nicolas Devilder 6-4, 6-0, 6-1; và Jarkko Nieminen 6-1, 6-3, 6-1. Anh tiếp tục vượt qua Fernando Verdasco 6-1, 6-0, 6-2 và Nicolas Almagro 6-1, 6-1, 6-1. Tính đến lúc đó, Nadal mới chỉ để thua 25 game, con số thấp nhất trong một giải Grand Slam kể từ Kỷ nguyên Mở rộng, trung bình 5 game mỗi trận. Trong bán kết, Nadal thắng Novak Djokovic 6-4, 6-2, 7-6(3) để vào chung kết và gặp lại Federer. Nadal trở thành tay vợt thứ ba trong lịch sử (sau Bjorn Borg và Ivan Lendl) vào chung kết Pháp Mở rộng bốn lần liên tiếp. Anh dễ dàng đánh bại Federer 6-1, 6-3, 6-0 trong trận chung kết, san bằng kỷ lục bốn lần liên tiếp vô địch của Borg. Trận chung kết Pháp Mở rộng 2008 là lần đầu tiên Federer để thua một set trắng kể từ năm 1999. Nadal cũng là tay vợt thứ năm vô địch một Grand Slam mà không thua set nào, sau Borg, Ken Rosewall, Ilie Nastase, và Federer. Chỉ ba tay vợt khác đã vô địch một Grand Slam bốn lần liên tiếp trong Kỷ nguyên Mở rộng: Borg (Pháp Mở rộng 1978-81 và Wimbledon 1976-80), Pete Sampras (Wimbledon 1997-2000), và Federer (Wimbledon 2003-2007 và US Open 2004-2008).
Khởi đầu mùa giải sân cỏ ngắn ngủi, Nadal đã đăng quang tại giải Queen's Club Championships, một giải đấu chuẩn bị cho Wimbledon, sau khi đánh bại Novak Djokovic 7-6(6), 7-5. Anh là tay vợt Tây Ban Nha đầu tiên đoạt danh hiệu tại Queen's Club, và là người thứ hai, sau Ilie Nastase, vô địch cả Pháp Mở rộng lẫn giải đấu này.
Nadal bắt đầu hành trình chinh phục Wimbledon với các chiến thắng lần lượt trước Andreas Beck 6-4, 6-4, 7-6(0); Ernests Gulbis 5-7, 6-2, 7-6(2), 6-3; và Nicolas Kiefer 7-6(3), 6-2, 6-3. Anh đã vượt qua Mikhail Youzhny ở vòng 4 với tỷ số 6-3, 6-3, 6-1, người đã từng thắng Nadal tại Chennai Mở rộng. Ở tứ kết, Nadal đánh bại tay vợt số 1 nước Anh Andy Murray 6-3, 6-2, 6-4. Sau khi thắng Rainer Schuettler 6-1, 7-6, 6-4, Nadal gặp lại Roger Federer trong trận chung kết. Trận đấu này, được đánh giá là trận chung kết dài nhất trong lịch sử Wimbledon, kết thúc vào lúc trời tối, với chiến thắng 6-4, 6-4, 6-7(5), 6-7(8), 9-7 nghiêng về Nadal. Đây là lần đầu tiên Nadal vượt qua Federer trên sân cỏ và giành chức vô địch Wimbledon, kết thúc chuỗi 65 trận bất bại của Federer trên mặt sân này. Nadal trở thành tay vợt thứ hai (sau Bjorn Borg) vô địch Wimbledon và Pháp Mở rộng trong cùng một năm. Trận chung kết này được coi là trận đấu tennis vĩ đại nhất trong lịch sử.
Nadal tiếp tục thành công với việc vô địch giải Toronto Masters (Rogers Cup) và vào bán kết giải Cincinnati Masters. Tuy nhiên, Djokovic đã chấm dứt chuỗi bất bại 32 trận của anh. Vào ngày 18 tháng 8, Nadal chính thức vượt qua Federer để lần đầu tiên đạt vị trí số 1 thế giới, trở thành tay vợt Tây Ban Nha thứ ba giữ vị trí này sau Carlos Moya (1999) và Juan Carlos Ferrero (2003). Tại Olympic Bắc Kinh 2008, Nadal vượt qua Novak Djokovic và Fernando González để giành huy chương vàng nội dung đơn nam.
Lần đầu tiên trong sự nghiệp, Nadal được xếp hạt giống số một tại một giải Grand Slam ở Mỹ Mở rộng 2008. Tại đây, anh bị Andy Murray loại ở bán kết. Dù chỉ vào đến bán kết tại giải Master ở Madrid, Nadal vẫn giữ vị trí số 1 thế giới khi kết thúc năm. Hai tuần sau, anh vào tứ kết giải Master ở Paris nhưng phải bỏ cuộc trước Nikolay Davydenko vì chấn thương. Nadal cũng phải bỏ cuộc tại Tennis Masters Cup và trận chung kết Davis Cup.
Nadal lần đầu tiên kết thúc năm ở vị trí số 1 thế giới với 6.675 điểm ATP.
2009: Nadal lần đầu tiên vô địch Úc mở rộng và gặp thất bại tại Roland Garros.
Nửa đầu năm 2009, Rafael Nadal duy trì phong độ xuất sắc, nhưng nửa sau năm anh gặp khó khăn với chấn thương và mất ngôi số 1 thế giới về tay Federer.
Nadal mở đầu năm 2009 bằng việc vô địch Úc Mở rộng. Anh có một trận bán kết căng thẳng và hấp dẫn trước Fernando Verdasco với tỷ số 6-7(4), 6-4, 7-6(2), 6-7(1), 6-4, lập kỷ lục là trận đấu dài nhất trong lịch sử Australian Open với thời gian 5 giờ 14 phút. Trong trận chung kết, Nadal đã đánh bại Roger Federer sau 5 set với tỷ số 7-5, 3-6, 7-6(3), 3-6, 6-2, lần đầu tiên giành chức vô địch Grand Slam trên mặt sân cứng. Federer không kìm nổi nước mắt trong lễ trao giải và Nadal đã an ủi anh. Nadal trở thành tay vợt thứ 4 giành Grand Slam trên cả ba mặt sân, sau Jimmy Connors, Mats Wilander, và Andre Agassi (Federer cũng sẽ đạt được thành tích này vài tháng sau). Tiếp theo, Nadal thắng tại Indian Wells, đánh bại Andy Murray 6-1, 6-2 trong trận chung kết, nhưng thua Juan Martín del Potro ở tứ kết Miami Masters.
Nadal bắt đầu mùa đất nện 2009 bằng việc vô địch Monte Carlo, vượt qua Djokovic 6-3, 2-6, 6-1, trở thành tay vợt đầu tiên đăng quang tại giải ATP Master Series trong 5 năm liên tiếp. Sau đó, anh giành chức vô địch tại Barcelona, đánh bại Ferrer 6-2, 7-5, và tiếp tục chiến thắng tại Rome Masters, lần thứ 4 tại giải này. Những thành công liên tiếp giúp Nadal trở thành tay vợt đầu tiên có mặt tại ATP World Tour Finals. Tại Madrid, một giải ATP 1000 chuẩn bị cho Pháp Mở rộng, Nadal và Djokovic đã có trận bán kết kéo dài 3 set, với chiến thắng 3-6, 7-6(5), 7-6(9) cho Nadal sau 4 giờ 11 phút. Tuy nhiên, lịch thi đấu dày đặc đã khiến Nadal tái phát chấn thương đầu gối và thua Federer 6-4, 6-4 trong trận chung kết, lần đầu tiên kể từ năm 2007, Nadal thua Federer.
Tại giải Pháp Mở rộng, Nadal bất ngờ thua Robin Söderling với tỷ số 6–2, 6–7 (2), 6–4, 7–6 (2) ngay ở vòng 4, chấm dứt chuỗi thắng 31 trận liên tiếp của anh tại giải này và cũng là lần đầu tiên anh thất bại tại Roland Garros. Vì chấn thương đầu gối, Nadal không thể tham dự Wimbledon 2009 và để mất ngôi số 1 thế giới vào tay Federer.
Giải đấu đầu tiên của Nadal sau khi trở lại từ chấn thương là Rogers Cup, nơi anh bị loại ở tứ kết trước Juan Martín del Potro. Thất bại này khiến Nadal rớt khỏi vị trí thứ 2 thế giới, lần đầu tiên kể từ ngày 25 tháng 7 năm 2005 anh không nằm trong Top 2.
Tại Mỹ Mở rộng 2009, Nadal vào đến bán kết nhưng thua Juan Martín del Potro với tỷ số 2–6, 2–6, 2–6. Del Potro sau đó lên ngôi vô địch sau khi đánh bại Federer. Mặc dù thua trận, Nadal vẫn lấy lại vị trí số 2 thế giới nhờ vào việc Murray bị loại sớm. Đến tháng 10, Nadal vào chung kết giải Thượng Hải 1000 nhưng thua Nicolay Davydenko 7-6(3), 6-3. Tại ATP World Tour Finals, Nadal bị loại ngay từ vòng bảng sau 3 trận thua trước Soderling, Davydenko và Djokovic mà không thắng nổi set nào.
Nadal cùng đội tuyển Tây Ban Nha giành chức vô địch Davis Cup lần thứ 4.
Nadal kết thúc năm với vị trí số 2 thế giới.
Năm 2010, Nadal đã hoàn tất 'Grand Slam sự nghiệp' và tái chiếm ngôi vị số 1 thế giới.
2010 được xem là năm rực rỡ nhất trong sự nghiệp của Nadal. Anh không chỉ trở lại vị trí số 1 thế giới mà còn hoàn thành Career Grand Slam (chiến thắng cả 4 giải Grand Slam) và Career Golden Slam (4 Grand Slam cùng HCV Olympic).
Khởi đầu năm 2010, Nadal gặp khó khăn khi thua Nikolay Davydenko ở chung kết Qatar Mở rộng. Anh tiếp tục thất bại tại tứ kết Australian Open trước Andy Murray do chấn thương. Nadal cũng thất bại tại Indian Wells và Miami, đều ở vòng bán kết trước Ivan Ljubičić và Andy Roddick. Lúc đó, anh tụt xuống vị trí thứ 4 ATP.
Khi mùa đất nện bắt đầu, Nadal đã trở lại mạnh mẽ, chấm dứt chuỗi 11 tháng không danh hiệu bằng cách vô địch Monte Carlo sau khi đánh bại Fernando Verdasco 6-0, 6-1. Anh trở thành tay vợt đầu tiên vô địch liên tiếp 6 lần tại một giải đấu. Sau đó, Nadal vô địch Rome Masters, cân bằng kỷ lục 17 danh hiệu ATP World Tour 1000 của Andre Agassi. Ở Madrid Masters, Nadal đã đánh bại Federer trong trận chung kết 6-4, 7-6(5), trở thành tay vợt vĩ đại nhất ở các giải Master Series với 18 danh hiệu, vượt qua Agassi (17) và Federer (16).
Với 3 chức vô địch ATP 1000 liên tiếp trên sân đất nện, Nadal đặt mục tiêu chinh phục Pháp Mở rộng để giành lại ngôi vương từ tay Roger Federer và khẳng định danh hiệu 'Vua đất nện' của mình. Quyết tâm cao độ, Nadal đã tiến thẳng vào chung kết và đối đầu với Robin Soderling, người đã đánh bại anh ở vòng 4 năm ngoái. Chiến thắng trước Soderling sẽ giúp Nadal không chỉ bảo vệ danh hiệu mà còn lấy lại ngôi số 1 thế giới từ tay Federer, người đã thất bại trước Soderling ở tứ kết. Vào ngày 6 tháng 6 năm 2010, Nadal đã đánh bại Soderling 6-4, 6-2, 6-4 để lần thứ 5 đứng trên bục cao nhất tại Roland Garros sau 6 năm. Đây là lần thứ hai kể từ năm 2008, Nadal vô địch Roland Garros mà không thua set nào. Nadal cũng quay lại vị trí số 1 thế giới ngay sau đó, ngăn Federer lập kỷ lục về số tuần giữ ngôi số 1 thế giới. Thành tích vô địch 3 giải Master đất nện cộng thêm Pháp Mở rộng của Nadal được gọi là 'Clay Slam'.
Sau một năm không thi đấu trên mặt sân cỏ, Nadal quay trở lại và tham dự giải đấu chuẩn bị cho Wimbledon ở Queen's Club, nơi anh dừng bước ở tứ kết trước Feliciano López với tỷ số 6–7(5), 4–6. Tại Wimbledon, Nadal đã lần lượt đánh bại Nishikori Kei 6–2, 6–4, 6–4 ở vòng 1 và Robin Haase 5–7, 6–2, 3–6, 6–0, 6–3 ở vòng 2. Sau trận đấu căng thẳng 5 set trước Philipp Petzschner với kết quả 6–4, 4–6, 6–7, 6–2, 6–3 ở vòng 3, Nadal bị phạt 2000 bảng vì lý do chiến thuật từ khán đài của chú Toni Nadal. Nadal tiếp tục vượt qua Paul-Henri Mathieu ở vòng 4 và Robin Soderling ở tứ kết, tiến vào bán kết gặp Andy Murray. Nadal đánh bại Murray 6–4, 7–6(8–6), 6–4 và ở chung kết gặp Tomas Berdych, người đã loại Federer và Djokovic. Berdych không thể gây bất ngờ trước Nadal, thua 6-3, 7-5, 6-4 trong 2 giờ 13 phút. Chiến thắng này mang về cho Nadal Grand Slam thứ 8 trong sự nghiệp.
Chuyển sang mùa sân cứng, Nadal tham dự hai giải đấu chuẩn bị cho US Open là Rogers Cup và Cincinnati Masters. Tại Rogers Cup, Nadal thất bại trước Andy Murray ở bán kết với tỷ số 6–3, 6–4. Trong khi ở Cincinnati Masters, Marcos Baghdatis đã đánh bại Nadal ở tứ kết.
Tại Mỹ Mở rộng 2010, hạt giống số 1 Rafael Nadal thi đấu xuất sắc với sự cải thiện đáng kể ở cú giao bóng. Anh đánh bại Teymuraz Gavili, Denis Istomin, Gilles Simon, Feliciano Lopez, Fernando Verdasco, và Mikhail Youzhny mà không để mất set nào trước khi gặp Djokovic ở chung kết. Ngày 14/9/2010, Nadal đã tạo dấu ấn trong sự nghiệp quần vợt của mình bằng chiến thắng 6-4, 5-7, 6-4, 6-2 trước Djokovic, giành Grand Slam thứ 3 liên tiếp trong năm sau Roland Garros và Wimbledon, và lần đầu tiên vô địch Mỹ Mở rộng. Anh trở thành người thứ 7 trong lịch sử hoàn tất Career Grand Slam và là người trẻ tuổi nhất trong Kỷ nguyên Mở rộng làm được điều này. Cùng với Agassi, Nadal là một trong hai tay vợt sở hữu Career Golden Slam (4 Grand Slam và HCV Olympic).
Chiến thắng tại US Open đã giúp Nadal đảm bảo vị trí số một thế giới trên bảng xếp hạng ATP vào cuối năm 2010. Sau giải đấu này, Nadal tham gia ba sự kiện ở châu Á: PTT Thailand Open (dừng bước ở bán kết trước Guillermo Garcia-Lopez), Rakuten Japan Open Tennis Championships (vô địch sau khi đánh bại Gael Monfils 6-1, 7-5) và Thượng Hải Masters (thua Jurgen Melzer ở vòng 3). Vào ngày 5 tháng 11, Nadal thông báo rút lui khỏi Paris Masters do chấn thương, giải Master cuối cùng trong năm.
Tại ATP World Tour Finals, giải đấu cuối cùng trong năm dành cho 8 tay vợt hàng đầu, Nadal nằm chung bảng với Novak Djokovic, Thomas Berdych và Andy Roddick. Anh toàn thắng 3 trận vòng bảng trước Roddick (3-6, 7-6(5), 6-4), Djokovic (7–5, 6–2) và Berdych (7-6(3), 6-1), qua đó vào bán kết. Nadal tiếp tục vượt qua Murray 7-6(5), 3-6, 7-6(6) để lần đầu tiên vào chung kết ATP World Tour Finals. Tuy nhiên, ở chung kết, Federer đã đánh bại Nadal với tỷ số 6–3, 3–6, 6–1. Dù là tay vợt số một thế giới, Nadal khiêm tốn nhận xét: 'Chiều nay tôi đã cố gắng hết sức, nhưng Roger đơn giản là đã chơi tốt hơn tôi.'
2011: Vô địch Roland Garros lần thứ 6 và giành chức vô địch Davis Cup cùng đội tuyển Tây Ban Nha.
Nadal khởi đầu năm 2011 bằng chiến thắng tại giải đấu biểu diễn ở Abu Dhabi, đánh bại Federer 7–6(4), 7–6(3) trong chung kết. Tại Qatar ExxonMobil Open ATP 250, anh vào bán kết nhưng thua Nikolay Davydenko 3-6, 2-6.
Tại Australian Open, Nadal nhắm đến việc giành Grand Slam thứ tư liên tiếp, được gọi là 'Rafa Slam'. Dù khởi đầu mạnh mẽ với việc thắng tất cả các set trong bốn trận đấu đầu tiên, anh đã gặp phải chấn thương gân khoeo ở tứ kết và thua David Ferrer 4–6, 2–6, 3–6.
Vào ngày 7 tháng 2 năm 2011, Nadal lần đầu tiên nhận giải thưởng Laureus World Sportsman of the Year. Anh vượt qua các đối thủ nổi tiếng như Lionel Messi, Sebastian Vettel, Andres Iniesta, Kobe Bryant và Manny Pacquiao để đứng trên bục cao nhất.
Sau một tháng hồi phục chấn thương, Nadal trở lại vào tháng 3 và giúp đội Tây Ban Nha đánh bại Bỉ tại Davis Cup. Anh tham gia hai giải Masters 1000: BNP Paribas Open tại Indian Wells và Sony Ericsson Open tại Miami, vượt qua Juan Martin del Potro và Roger Federer tại bán kết. Tuy nhiên, Nadal thất bại trước Novak Djokovic trong cả hai trận chung kết với các tỷ số 6-4, 3-6, 2-6 và 6-4, 3-6, 6(3)-7.
Khởi đầu mùa giải đất nện tại Monte Carlo Masters, Nadal đánh bại Ivan Ljubicic ở tứ kết và Andy Murray ở bán kết trước khi giành chiến thắng 6-4, 7-5 trước David Ferrer ở chung kết, bảo vệ thành công danh hiệu và trở thành tay vợt đầu tiên đoạt danh hiệu ATP 7 năm liên tiếp. Sau đó, Nadal tiếp tục chiến thắng David Ferrer 6-2, 6-4 tại Barcelona Open, giải đấu mà anh đã thống trị trước đó. Chiến thắng tại bán kết Barcelona Open cũng là trận thắng ATP thứ 500 của Nadal, khiến anh trở thành tay vợt trẻ thứ hai đạt mốc này, sau Bjorn Borg.
Tại Madrid Masters, Nadal tiếp tục thất bại trước Federer để vào chung kết, và thua 7-5, 6-4 trước Djokovic, đánh dấu trận thua thứ 3 liên tiếp trước tay vợt Serbia. Một tuần sau, Nadal lại thất bại 6-4, 6-4 trước Djokovic ở chung kết Rome Masters, đây là lần đầu tiên anh thua hai trận chung kết trên sân đất nện trong cùng một mùa giải.
Tại Roland Garros, giải Grand Slam thứ hai trong năm, Nadal đã khởi đầu đầy khó khăn với chiến thắng 6-4, 6(2)-7, 6(2)-7, 6-2, 6-4 trước John Isner. Đây là lần đầu tiên tại giải đấu này, Nadal phải thi đấu đến 5 set để giành chiến thắng. Anh lần lượt vượt qua Pablo Andujar 7-5, 6-3, 7-6(4), Antonio Veic 6-1, 6-3, 6-0, và Ivan Ljubicic 7-5, 6-3, 6-3. Tại tứ kết, Nadal đánh bại Robin Soderling 6-4, 6-1, 7-6(3), tay vợt đã thua anh trong chung kết năm trước. Nadal tiếp tục vượt qua Andy Murray 6-4, 7-5, 6-4 ở bán kết và giành chiến thắng 7-5, 7-6(3), 5-7, 6-1 trước Roger Federer trong trận chung kết để bảo vệ thành công danh hiệu. Với chiến thắng này, Nadal đã cân bằng kỷ lục 6 lần vô địch Roland Garros của Bjorn Borg và đạt danh hiệu Grand Slam thứ 10, trở thành tay vợt trẻ thứ hai đạt mốc này sau Bjorn Borg. Djokovic thua Federer ở bán kết, giúp Nadal giữ vững ngôi số 1 thế giới.
Tại giải Queen's Club, Nadal vào tới tứ kết nhưng bị loại bởi Tsonga. Ở Wimbledon, anh vượt qua Michael Russell, Ryan Sweeting, và Gilles Müller để vào vòng 4, nơi đánh bại Juan Martin del Potro 7-6(6), 3-6, 7-6(4), 6-4 dù bị chấn thương gót chân trong set đầu. Ở tứ kết, Nadal thắng Mardy Fish 6-3, 6-3, 5-7, 6-4, và tiếp tục đánh bại Andy Murray 5-7, 6-2, 6-2, 6-4 ở bán kết. Tuy nhiên, trong chung kết, Nadal thất bại trước Novak Djokovic 6-4, 6-1, 1-6, 6-3, mất ngôi số 1 thế giới vào tay tay vợt Serbia.
Sau kỳ nghỉ ngắn, Nadal không đạt phong độ cao tại hai giải Masters 1000, bị loại bởi Ivan Dodig tại Rogers Cup và Mardy Fish tại Cincinnati Masters. Tuy nhiên, tại US Open, Nadal trở lại mạnh mẽ với các chiến thắng trước Andrey Golubev 6-3, 7-6, 7-5, Nicolas Mahut 6-2, 6-2 (bỏ cuộc), David Nalbandian 7-6, 6-1, 7-5, Gilles Müller 7-6, 6-1, 6-2. Sau trận đấu với Nalbandian, Nadal bị chuột rút nặng và té khỏi ghế trong cuộc họp báo. Ở tứ kết, anh thắng Andy Roddick 6-2, 6-2, 6-3 và đánh bại Andy Murray 6-4, 6-2, 3-6, 6-2 ở bán kết. Trong chung kết, Nadal không thể bảo vệ danh hiệu trước Novak Djokovic, thua 2-6, 4-6, 7-6(3), 1-6.
Sau US Open, Nadal trở về Cordoba để giúp Tây Ban Nha vượt qua Pháp tại bán kết Davis Cup, giành chiến thắng trong cả hai trận đơn trước Richard Gasquet và Jo-Wilfried Tsonga.
Tại Japan Open, Nadal vào chung kết nhưng thua Andy Murray 6-3, 2-6, 0-6. Sau đó, anh dự Thượng Hải Masters nhưng thất bại trước Florian Mayer 6-7(5), 3-6, khiến Nadal không thể đòi lại ngôi số 1 thế giới từ Novak Djokovic trong năm 2011.
Do chấn thương, Nadal không tham dự Paris Masters và di chuyển đến London để tham gia ATP World Tour Finals. Anh thắng Mardy Fish nhưng bị loại ở vòng bảng sau hai thất bại trước Roger Federer (3–6, 0–6) và Jo-Wilfried Tsonga (6–7, 6–4, 3–6).
Tại trận chung kết Davis Cup đầu tháng 12 giữa Tây Ban Nha và Argentina, Nadal dễ dàng đánh bại Juan Monaco với tỷ số 6-1, 6-1, 6-2 trong trận mở màn. Khi đội Tây Ban Nha dẫn 2-1 sau hai ngày thi đấu, Nadal tiếp tục thắng Juan Martin del Potro 1-6, 6-4, 6-1, 7-6(0), giúp Tây Ban Nha lần thứ năm vô địch Davis Cup, và là lần thứ ba trong bốn năm.
2012: Nadal lên ngôi vô địch Roland Garros lần thứ bảy.
Nadal khởi đầu mùa giải tại ATP Doha nhưng bất ngờ dừng bước tại bán kết trước Gael Monfils. Tại Australian Open, anh vào chung kết nhưng thua Djokovic sau 5 set kéo dài 5 giờ 53 phút. Dù trận đấu lập kỷ lục là trận chung kết Grand Slam dài nhất, đây là thất bại thứ bảy liên tiếp của Nadal trước Djokovic. Ở Indian Wells và Miami, Nadal không thành công và dừng lại ở bán kết do chấn thương đầu gối tái phát.
Mùa đất nện bắt đầu, Nadal bảo vệ danh hiệu tại Monte Carlo Masters với chiến thắng trước Djokovic, chấm dứt chuỗi 7 trận thua liên tiếp trước đối thủ này. Đây là danh hiệu Monte Carlo thứ tám liên tiếp của anh. Nadal tiếp tục giành danh hiệu thứ bảy tại Barcelona nhưng bất ngờ thua Verdasco ở vòng 3 Madrid Masters. Sau đó, anh thắng Djokovic ở chung kết Rome Masters, đạt danh hiệu thứ sáu tại đây sau 7 trận chung kết.
Tại Roland Garros, Nadal dễ dàng tiến vào chung kết đối đầu với Novak Djokovic, tay vợt số 1 thế giới. Đây là trận chung kết Grand Slam thứ tư liên tiếp giữa hai người. Nadal giành chiến thắng sau 4 set, thiết lập kỷ lục mới với 7 lần vô địch Roland Garros.
Sau thành công ở Paris, Nadal bước vào mùa sân cỏ với nhiều kỳ vọng, nhưng bất ngờ thất bại ở tứ kết Halle trước Philipp Kohlschreiber và ngay vòng 2 Wimbledon trước Rosol sau 5 set.
Sau khi bị loại tại Wimbledon, Nadal đi kiểm tra y tế và phát hiện đầu gối tái phát chấn thương nghiêm trọng.
Chấn thương này đã khiến Nadal không thể bảo vệ huy chương vàng Olympic và không kịp hồi phục để tham gia các giải đấu cuối năm như Roger Cup, Cincinnati, US Open và ATP World Tour Finals. Kết thúc năm 2012, Nadal tụt xuống vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng ATP, năm đầu tiên kể từ 2005 anh không kết thúc trong top 2 thế giới.
2013: Nadal giành hai danh hiệu Grand Slam và kết thúc năm ở vị trí số 1 thế giới.
Hai tuần trước khi tham dự Úc Mở rộng, Nadal đã phải rút lui vì bị virus dạ dày. Đây là lần đầu tiên anh tụt xuống vị trí thứ 5 trên bảng xếp hạng kể từ năm 2005.
Trở lại Nam Mỹ sau nhiều năm, Nadal bắt đầu mùa giải 2013 tại giải ATP Tour 250 ở Viña del Mar, Chile. Anh tiến vào chung kết mà không thua set nào, nhưng cuối cùng bị đánh bại bởi tay vợt số 73 thế giới, Horacio Zeballos.
Tại giải Viña del Mar, Nadal tham gia cả nội dung đơn và đôi, và đều vào đến chung kết. Trong nội dung đôi, anh kết hợp với Juan Mónaco. Ở giải ATP Tour 250 tại São Paulo, Brazil, Nadal đã chiến thắng David Nalbandian trong trận chung kết, đánh dấu chức vô địch đầu tiên của anh sau Roland Garros 2012 và cũng là danh hiệu đầu tiên trong năm 2013. Anh tiếp tục giành chức vô địch tại Acapulco, México và Indian Wells Masters, chuẩn bị kỹ lưỡng cho mùa đất nện 2013, nơi anh phải bảo vệ điểm số lớn từ Monte Carlo Masters, Rome Masters và Roland Garros năm trước.
Tại Monte Carlo 2013, Nadal vào chung kết đối đầu với Novak Djokovic, hy vọng thiết lập kỷ lục 9 lần vô địch liên tiếp. Djokovic là người duy nhất có khả năng ngăn cản Nadal, và cuối cùng, Djokovic đã giành chiến thắng thuyết phục sau hai set.
Dù thất bại ở Monte Carlo, Nadal đã trở lại mạnh mẽ với phong độ xuất sắc và tinh thần kiên cường. Anh liên tiếp chinh phục Barcelona Open, Mutua Madrid Open, Rome Masters và Roland Garros. Đặc biệt, trong bán kết Roland Garros 2013, Nadal đã vượt qua Djokovic trong một trận đấu căng thẳng kéo dài 5 set.
Nadal đã bất ngờ bị loại ngay từ vòng 1 Wimbledon sau khi thua Steve Darcis (hạng 135 thế giới) trong 3 set. Đây là lần thứ hai liên tiếp anh không vượt qua vòng 2 Wimbledon và là lần đầu tiên anh bị loại ở vòng đầu tiên một giải Grand Slam. Dù vậy, anh nhanh chóng lấy lại phong độ tại Rogers Cup và Cincinnati Masters, giành lại vị trí thứ 2 từ Murray và thiết lập kỷ lục 5 Masters 1000 trong một năm, bằng Djokovic.
Tại Mỹ Mở rộng, Nadal tiếp tục thể hiện phong độ ấn tượng trên mặt sân cứng. Anh chỉ để thua một set duy nhất trước Philipp Kohlschreiber ở vòng 4 trước khi tiến vào trận chung kết. Trong các vòng tứ kết và bán kết, Nadal dễ dàng vượt qua Tommy Robredo và Richard Gasquet. Trong trận chung kết, anh đánh bại Djokovic 3-1 (6-2, 3-6, 6-4, 6-1) để giành chức vô địch Grand Slam thứ 13 trong sự nghiệp, đồng thời là lần thứ hai anh vô địch US Open.
Sau US Open, Nadal tham dự giải ATP Tour 500 tại Bắc Kinh, Trung Quốc với hy vọng chiếm lại vị trí số 1 thế giới. Dù thất bại trước Djokovic trong trận chung kết với tỷ số 3-6, 4-6, anh vẫn vươn lên số 1 ATP từ ngày 7/10/2013. Tại Shanghai Masters ở Thượng Hải, Nadal dừng bước ở bán kết trước Juan Martín del Potro. Ở Paris Masters, anh cũng bất ngờ thất bại trước David Ferrer tại bán kết. Tại ATP World Tour Finals, Nadal vào đến chung kết nhưng lại thất bại trước Djokovic sau 2 set. Dù vậy, anh kết thúc năm 2013 với vị trí số 1 thế giới và một mùa giải thành công.
2014: Nadal lần thứ 9 vô địch Roland Garros.
Tại giải đấu đầu tiên của năm, Nadal đã giành danh hiệu Qatar Open lần đầu tiên trong sự nghiệp sau khi đánh bại Gael Monfils trong trận chung kết với các tỷ số 6-1, 6-7, 6-2.
Tại giải Úc Mở rộng đầu năm, Nadal đã xuất sắc lọt vào chung kết. Tuy nhiên, anh đã không thể vượt qua Stanislas Wawrinka, tay vợt đang ở phong độ cao, và đành chấp nhận thất bại.
Dù vẫn đang phục hồi chấn thương lưng từ trận chung kết Úc Mở rộng, Nadal đã tham dự giải ATP 500 lần đầu tiên tại Rio de Janeiro, Brazil. Anh đã giành chức vô địch và nâng tổng số danh hiệu sự nghiệp lên 62 sau khi vượt qua Dolgopolov trong trận chung kết.
Tại Indian Wells Masters, giải đấu Master series đầu tiên trong năm, Nadal không thể bảo vệ danh hiệu khi bị loại ngay từ vòng 3 bởi Dolgopolov. Trong giải Miami Masters tiếp theo, dù vào chung kết gặp Djokovic, anh lại thất bại nhanh chóng trong 2 set. Vậy là Nadal vẫn chưa thể chinh phục danh hiệu tại Miami sau 4 lần vào chung kết.
Bắt đầu mùa đất nện, Nadal tiếp tục gặp khó khăn khi bị loại ở tứ kết tại Monte Carlo và Barcelona. Tuy nhiên, anh đã có màn trở lại ấn tượng tại Madrid Open sau khi Nishikori Kei bỏ cuộc ở set 3. Tại Rome Masters, Nadal vào chung kết nhưng thua Djokovic trong 3 set, làm dấy lên lo ngại cho Roland Garros. Nhưng vào ngày 8 tháng 6 năm 2014, Nadal đã đánh bại Djokovic trong trận chung kết Roland Garros với tỷ số (3-6, 7-5, 6-2, 6-4), giành danh hiệu thứ 9 tại giải và cân bằng thành tích 14 Grand Slam của Pete Sampras, đứng sau Roger Federer.
Khi mùa giải sân cỏ bắt đầu, Nadal có màn khởi động không suôn sẻ khi thua ngay vòng 2 giải Halle Open. Tại Wimbledon, anh bị loại ở vòng 4 bởi tay vợt trẻ tài năng Nick Kyrgios của Australia. Trong khi Djokovic giành danh hiệu Wimbledon thứ 2, Nadal mất ngôi vị số 1 thế giới vào tay đối thủ sau khi giải đấu kết thúc.
Nadal đã phải rút lui khỏi mùa giải sân cứng Bắc Mỹ do chấn thương cổ tay. Khi chuyển sang Tour Châu Á, anh trở lại ở giải Bắc Kinh nhưng bất ngờ bị loại ở tứ kết trước Martin Klizan. Tại giải Thượng Hải Masters, Nadal tiếp tục bị loại ngay trận đầu tiên trước Feliciano Lopez. Tại Basel Open, giải đấu cuối cùng trong mùa giải, Nadal vào tứ kết nhưng lại thua tay vợt trẻ Borna Coric.
Nadal quyết định không tham dự World Tour Finals để tiến hành phẫu thuật điều trị viêm ruột thừa. Kết thúc năm ở vị trí số 3 thế giới, sau Djokovic và Federer.
2015: Thụt lùi phong độ.
Năm 2015 đánh dấu sự sa sút của Nadal. Anh khởi đầu bằng thất bại trước Berrer tại Doha Open. Tại Australian Open, Nadal vào tứ kết nhưng để thua Tomas Berdych. Anh tiếp tục bị loại ở tứ kết Rio Open trên sân đất nện, và chỉ giành chiến thắng tại giải ATP 250 ở Argentina. Phong độ tồi tệ của Nadal kéo dài khi anh bị loại sớm ở Indian Wells và Miami Masters, lần lượt trước Raonic và Verdasco.
Khi mùa đất nện bắt đầu, Nadal bị loại ở bán kết Monte Carlo bởi Djokovic, và tiếp tục thua Fognini ở tứ kết Barcelona Open. Tại Madrid Masters, mặc dù Djokovic không tham dự, Nadal vẫn thất bại trước Andy Murray trong trận chung kết, người trước đó chưa từng thắng anh trên sân đất nện. Tại Rome Masters, Nadal bị Wawrinka loại ở tứ kết. Điều này đồng nghĩa với việc anh không giành được bất kỳ danh hiệu sân đất nện nào trước Roland Garros, điều chưa từng xảy ra trong 10 năm qua. Tại Pháp Mở rộng, Nadal đối mặt với Djokovic ở tứ kết và thất bại 5-7, 3-6, 1-6, chính thức chia tay giải đấu mà anh đã vô địch 9 lần trong 10 năm. Đây là trận thua thứ hai của Nadal tại Roland Garros, sau thất bại trước Soderling năm 2009. Sau giải đấu, Nadal rơi xuống vị trí số 10 thế giới, thấp nhất kể từ năm 2005.
Tiếp tục phong độ kém cỏi, Nadal đã bất ngờ thất bại trước Dustin Brown, tay vợt ngoài top 100 ATP, ở vòng 2 Wimbledon 2015. Tuy nhiên, anh đã lấy lại tinh thần và đăng quang tại giải ATP 500 trên sân đất nện ở Hamburg sau khi vượt qua Fabio Fognini với các tỷ số 7-5, 7-5.
Khởi động mùa giải sân cứng Bắc Mỹ 2015, Nadal tiếp tục gây thất vọng khi bị loại sớm ở cả hai giải Master 1000. Tại Mỹ Mở Rộng, giải Grand Slam cuối cùng trong năm, anh bị loại bởi Fognini ở vòng 3 sau khi dẫn trước 2-0 sau hai set đầu. Đây là lần đầu tiên Nadal không vào tứ kết ở một giải Grand Slam sân cứng kể từ năm 2007 và cũng là lần đầu tiên anh không bảo vệ được chiến thắng khi dẫn trước 2-0 trong một trận đấu Grand Slam.
Chuyển sang Tour Châu Á, Nadal vào chung kết giải Bắc Kinh nhưng phải chấp nhận thua trước Djokovic. Tiếp đó, anh bị Tsonga loại ở bán kết giải Thượng Hải Masters và cũng thất bại sớm tại Paris Masters. Tuy nhiên, anh đã lọt vào bán kết ATP World Tour Finals, trước khi bị Djokovic đánh bại với tỷ số 6-3, 6-3.
Nadal kết thúc năm ở vị trí số 5 và không giành được bất kỳ danh hiệu Grand Slam hay Master 1000 nào, điều chưa từng xảy ra trong 10 năm qua.
2016: Giành chức vô địch Master 1000 lần thứ 28 và huy chương vàng Olympic lần thứ hai.
Tại giải Doha Open đầu năm, Nadal vào đến chung kết nhưng nhanh chóng thất bại trước Djokovic.
Tại Úc Mở rộng, Nadal bất ngờ bị loại ngay vòng đầu tiên sau thất bại 5 set trước đồng hương Fernando Verdasco.
Nadal tham gia hai giải đấu đất nện ở Nam Mỹ, nhưng dù thi đấu trên mặt sân sở trường, anh vẫn không đạt phong độ cao khi thua ở bán kết trước Thiem và Cuevas. Phong độ của Nadal có phần cải thiện ở hai giải Master 1000 đầu năm khi anh vào đến bán kết ở Indian Wells nhưng thất bại trước Djokovic.
Tháng Tư, Nadal giành danh hiệu Master 1000 thứ 28 tại Monte Carlo sau chiến thắng trước Monfils. Đây là danh hiệu lớn đầu tiên của anh sau gần 2 năm kể từ Roland Garros 2014. Anh tiếp tục chiến thắng tại ATP 500 Barcelona, mang về danh hiệu sân đất nện thứ 49 và sánh ngang với Guillermo Vilas. Tại Madrid, Nadal đánh bại Kuznetsov, Querrey và Sousa trước khi thua Murray trong bán kết, trận thua thứ hai của Murray trên sân đất nện. Nadal cũng vào tứ kết tại Rome Masters nhưng bị loại bởi Djokovic.
Sau khi Federer rút lui vì chấn thương, Nadal được xếp hạng hạt giống số 4 tại Roland Garros. Ngày 26 tháng 5, anh trở thành tay vợt thứ tám trong lịch sử ghi 200 trận thắng Grand Slam sau khi đánh bại Facundo Bagnis ở vòng 2 Roland Garros. Tuy nhiên, anh phải rút lui do chấn thương cổ tay trái. Vào ngày 9 tháng 6, Nadal thông báo sẽ bỏ giải Wimbledon và cần thêm thời gian điều trị. Tại Thế vận hội Rio 2016, Nadal cùng Marc Lopez giành huy chương vàng đôi nam cho Tây Ban Nha sau khi đánh bại Mergea và Tecau của Rumani, trở thành tay vợt thứ hai trong kỷ nguyên mở giành huy chương vàng ở cả hai nội dung đơn và đôi.
Tại giải Mỹ Mở rộng 2016, Nadal thi đấu với tư cách hạt giống số 4 và vào đến vòng 4, nhưng bị loại bởi Lucas Pouille, tay vợt hạt giống số 24, sau 5 set căng thẳng.
Tại Thượng Hải Master, Nadal bị loại ngay từ vòng đầu tiên. Sau đó, anh quyết định rút lui khỏi phần còn lại của mùa giải để điều trị chấn thương cổ tay. Nadal kết thúc năm ở vị trí số 9, mức thấp nhất kể từ năm 2005.
2017: Sự trở lại mạnh mẽ với 2 danh hiệu Grand Slam và kết thúc năm với vị trí số 1 thế giới.
Nadal khởi đầu năm 2017 tại giải Brisbane, lọt vào tứ kết trước khi thua Milos Raonic sau ba set. Tại giải Grand Slam đầu năm, anh lần lượt vượt qua Florian Mayer, Marcos Baghdatis, Alexander Zverev, Mischa và Gael Monfils. Nadal đánh bại Raonic ở tứ kết và Grigor Dimitrov ở bán kết. Trong trận chung kết, anh thất bại trước Roger Federer sau 5 set căng thẳng.
Nadal vào chung kết Acapulco mà không thua set nào nhưng lại để thua Sam Querrey. Anh tiếp tục thất bại trước Federer ở vòng 4 Indian Wells Masters và lần thứ 5 vào chung kết Miami Masters, nơi tiếp tục thua Federer. Đây cũng là lần đầu tiên trong sự nghiệp, Nadal để thua Federer 4 trận liên tiếp.
Khởi đầu mùa giải đất nện châu Âu tại Monte Carlo, Nadal giành danh hiệu Masters thứ 29 và đây là lần thứ 10 anh đăng quang tại Monte Carlo. Tiếp theo, Nadal thắng Barcelona Open lần thứ 10 mà không để thua set nào. Anh cũng vô địch Madrid Masters, cân bằng kỷ lục 30 danh hiệu Masters của Novak Djokovic. Tại Rome Masters, Nadal bị Dominic Thiem loại ở tứ kết. Sau đó, Nadal lên ngôi tại Pháp Mở rộng lần thứ 10 mà không thua set nào, đánh dấu Grand Slam đầu tiên kể từ năm 2014, chấm dứt 3 năm không vô địch. 'La Décima' giúp Nadal trở thành tay vợt đầu tiên trong kỷ nguyên mở đạt 10 Grand Slam, vượt qua Pete Sampras và đứng thứ hai về số danh hiệu Grand Slam. Với chiến thắng tại Roland Garros 2017, Nadal trở thành tay vợt thứ 3 trong kỷ nguyên mở vô địch Grand Slam ở ba độ tuổi khác nhau (teen, 20s, 30s), cùng với Ken Rosewall và Pete Sampras.
Trong mùa giải sân cỏ, Nadal lọt vào vòng 4 Wimbledon nhưng thất bại đáng tiếc trước Gilles Muller sau 5 set.
Tại mùa giải sân cứng Bắc Mỹ 2017, Nadal khởi đầu không thuận lợi khi bị loại sớm ở Montreal và Cincinnati. Tuy nhiên, anh đã giành thêm danh hiệu Mỹ Mở rộng sau chiến thắng trước Kevin Anderson, lần đầu tiên kể từ năm 2013 đạt 2 Grand Slam trong một năm và lần thứ 2 kể từ năm 2010. Nadal tiếp tục thắng Nick Kyrgios tại China Open để có thêm một danh hiệu ATP. Tại Thượng Hải, anh vào chung kết nhưng một lần nữa để thua Federer.
Sau chiến thắng trước Hyeon Chung tại vòng 2 Paris Master, Nadal chính thức giành danh hiệu tay vợt xuất sắc của năm lần thứ 4 trong sự nghiệp, bằng thành tích của Novak Djokovic, Ivan Lendl và John McEnroe, đứng sau Pete Sampras (6 lần), Roger Federer và Jimmy Connors (5 lần). Nadal tiếp tục thi đấu ở ATP Finals cuối năm, nhưng phải rút lui vì chấn thương sau trận ra quân không thành công.
2018: Đạt danh hiệu Masters thứ 33, trận thắng thứ 400 trên mặt sân đất nện, vô địch Pháp mở rộng lần thứ 11 và đối mặt với chấn thương.
Nadal khởi đầu mùa giải 2018 tại giải Kooyong Classic nhưng bị loại ngay vòng đầu bởi Richard Gasquet. Tiếp theo, anh tham gia giải Tie Break Tens và thất bại trước Tomáš Berdych trong trận chung kết. Tại Úc mở rộng 2018, sau khi vượt qua Víctor Estrella Burgos, Leonardo Mayer, Damir Džumhur và Diego Schwartzman, Nadal lọt vào tứ kết gặp Marin Čilić. Đáng tiếc, anh phải bỏ cuộc do chấn thương tái phát.
Nadal không tham dự hai giải Master 1000 đầu năm để tập trung điều trị chấn thương, dẫn đến việc mất ngôi vị số 1 thế giới vào tay Roger Federer.
Tại Monte Carlo Masters, Nadal bảo vệ thành công danh hiệu và giành được Masters 1000 lần thứ 31 trong sự nghiệp, trở thành tay vợt có nhiều danh hiệu Masters 1000 nhất trong lịch sử. Đây cũng là danh hiệu thứ 11 của anh tại Monte Carlo. Nadal thắng giải này mà không thua set nào, đánh bại Kei Nishikori với tỷ số 6-3, 6-2. Tiếp theo, Nadal giành danh hiệu Barcelona Open lần thứ 11 và thiết lập kỷ lục 46 set thắng liên tiếp trên mặt sân đất nện. Anh cũng là tay vợt duy nhất có 400 chiến thắng trên cả mặt sân đất nện và sân cứng.
Nadal không thể bảo vệ thành công danh hiệu trên quê hương khi thất bại trước Dominic Thiem ở tứ kết. Với kết quả này, anh chỉ giữ được kỷ lục 50 set thắng liên tiếp và mất luôn vị trí số 1 vào tay Federer.
Chỉ một tuần sau, Nadal đã vô địch Rome Master, lần thứ 10 anh vào chung kết giải này. Trên đường vào chung kết, anh vượt qua Djokovic, rút ngắn tỷ số đối đầu giữa hai tay vợt còn 25-26. Với chiến thắng thứ 8 tại Rome, Nadal xuất sắc giành lại vị trí số 1 từ tay đại kình địch Federer.
Tại giải Pháp Mở rộng, Nadal đã vượt qua tất cả các đối thủ để tiến vào chung kết lần thứ 11 và một lần nữa lên ngôi vô địch sau khi đánh bại Dominic Thiem với các set 6-4, 6-3, 6-2. Chiến thắng này giúp anh nâng tổng số danh hiệu Grand Slam lên 17.
Tại Wimbledon, Nadal đã có màn trình diễn ấn tượng khi lọt vào bán kết, nhưng phải dừng bước trước Novak Djokovic trong trận đấu căng thẳng kéo dài 5 set với tỷ số 3-6, 6-3, 6-7, 6-3, 8-10.
Trong mùa giải Bắc Mỹ, Nadal vượt qua Tsitsipas để giành danh hiệu Masters thứ 33 trong sự nghiệp. Tuy nhiên, tại giải Mỹ Mở rộng, anh buộc phải bỏ cuộc trong trận bán kết với Del Potro do chấn thương.
Chấn thương đã khiến Nadal phải nghỉ phần còn lại của mùa giải và mất ngôi số 1 thế giới vào tay Novak Djokovic. Đây là lần thứ 6 trong sự nghiệp anh kết thúc năm ở vị trí số 2 thế giới.
2019: Lần thứ 5 vào chung kết Australian Open, vô địch Pháp Mở rộng lần thứ 12 và giành chức vô địch Mỹ Mở rộng lần thứ 4.
Nadal khởi đầu năm 2019 với giải Brisbane International, nhưng anh buộc phải rút lui trước trận đấu đầu tiên do chấn thương.
Tại Úc mở rộng, Nadal được xếp hạt giống số 2. Anh lần lượt vượt qua James Duckworth, Matthew Ebden, Alex de Minaur, Tomáš Berdych, đánh bại Frances Tiafoe ở tứ kết và Stefanos Tsitsipas ở bán kết, lọt vào chung kết Grand Slam thứ 5 trong năm. Tuy nhiên, giống như các lần vào chung kết Úc mở rộng năm 2012, 2014 và 2017, Nadal không thể giành chiến thắng và thất bại trước Novak Djokovic, tay vợt số 1 thế giới hiện tại.
Tại giải Mexico Open, Nadal dễ dàng vượt qua vòng 1 nhưng thất bại trước Nick Kyrgios ở vòng 2 dù đã có 3 cơ hội giành chiến thắng.
Trở lại Indian Wells sau khi vắng mặt năm 2018, Nadal tiếp tục thể hiện phong độ tốt nhưng phải bỏ cuộc ở bán kết vì chấn thương tái phát khi đối đầu Federer.
Bắt đầu mùa giải sân đất nện ở châu Âu, Nadal gặp khó khăn khi bị loại ở bán kết Monte Carlo, Barcelona và Madrid. Tuy nhiên, anh giành danh hiệu đầu tiên trong năm tại Rome Master 1000, lập kỷ lục 34 chức vô địch Master 1000 sau khi đánh bại Djokovic ở chung kết. Tại Roland Garros, Nadal vào chung kết sau khi để thua 1 set trước David Goffin và thắng Federer ở bán kết. Ở chung kết, Nadal vượt qua Dominic Thiem với tỷ số 6-3, 5-7, 6-1, 6-1, giành chức vô địch Roland Garros thứ 12 và nâng tổng số Grand Slam lên 18 danh hiệu.
Tại Wimbledon, giải Grand Slam thứ 3 trong năm, Nadal lại tiến đến bán kết nhưng thất bại trước Federer, đánh dấu lần đầu tiên họ gặp nhau ở Wimbledon kể từ trận chung kết năm 2008 huyền thoại.
Trong mùa giải sân cứng Bắc Mỹ, Nadal giành chức vô địch Masters 1000 thứ 35 sau khi đánh bại Medvedev ở chung kết. Đây là lần đầu tiên Nadal bảo vệ thành công một danh hiệu ngoài sân đất nện. Nadal rút lui khỏi Cincinnati năm thứ 2 liên tiếp để chuẩn bị cho giải Grand Slam cuối năm. Tại Mỹ Mở Rộng 2019, Nadal giành Grand Slam thứ 19 sau khi thắng Medvedev trong trận chung kết 5 set. Đây là lần thứ 4 Nadal vô địch tại Mỹ Mở Rộng và năm thứ 5 liên tiếp anh vô địch hơn 1 Grand Slam trong một mùa giải.
Nadal quyết định không tham dự tour Châu Á để chuẩn bị cho đám cưới với bạn gái lâu năm Xisca. Anh trở lại ở giải Master cuối năm tại Paris nhưng phải bỏ cuộc ở bán kết do chấn thương bụng. Dù vậy, sau giải đấu, Nadal trở lại vị trí số 1 thế giới khi Djokovic bị loại sớm ở Thượng Hải.
Nadal tham dự ATP Final với mục tiêu bảo vệ ngôi số 1 thế giới trước Djokovic. Sau khi thua trận đầu tiên trước Zverev, Nadal lội ngược dòng ấn tượng trước Medvedev ở vòng bảng thứ 2 và thắng Tsitsipas ở trận cuối cùng. Dù không vào bán kết, Nadal cùng Djokovic không thể vượt qua vòng bảng, giúp anh kết thúc năm thứ 5 ở vị trí số 1 thế giới và thiết lập kỷ lục là tay vợt lớn tuổi nhất kết thúc năm ở số 1 với 33 tuổi.
Nadal kết thúc năm 2019 thành công khi cùng đội tuyển Tây Ban Nha vô địch Davis Cup. Anh thắng cả tám trận tham dự (gồm đơn và đôi), giành giải tay vợt xuất sắc nhất Davis Cup năm nay.
2020: Nadal giành chức vô địch ATP Cup và thêm lần thứ 13 đăng quang tại Roland Garros.
Nadal khởi đầu năm 2020 tại ATP Cup, dẫn dắt Tây Ban Nha vào chung kết nhưng để thua Serbia. Tại Úc Mở Rộng, Nadal thắng Hugo Dellien, Federico Delbonis và Pablo Carreño Busta trong ba trận đầu, vượt qua Nick Kyrgios ở vòng 4 nhưng thua Dominic Thiem ở tứ kết. Djokovic bảo vệ thành công chức vô địch Úc Mở Rộng, khiến Nadal mất ngôi số 1 thế giới. Nadal sau đó giành chức vô địch Mexico Open lần thứ ba sau khi đánh bại Taylor Fritz ở chung kết.
Nadal quyết định bỏ qua mùa giải sân cứng Bắc Mỹ để tập trung vào chinh phục Grand Slam thứ 20 trên sân đất nện. Sau 6 tháng gián đoạn vì đại dịch Covid-19, Nadal trở lại tại Rome Master nhưng không thể bảo vệ chức vô địch khi thua Diego Schwartzman ở tứ kết. Tại Roland Garros, Nadal đi thẳng đến chung kết và phục thù Diego Schwartzman với chiến thắng 3-0 ở bán kết. Trong chung kết Roland Garros 2020, Nadal dễ dàng đánh bại Djokovic với tỷ số 6-0, 6-2, 7-5 để giành danh hiệu lần thứ 13 và cân bằng kỷ lục 20 Grand Slam với Roger Federer. Đây cũng là lần thứ 4 Nadal vô địch Roland Garros mà không thua set nào, và chiến thắng trước Djokovic là trận thắng thứ 100 của Nadal tại Roland Garros, nâng tổng thành tích lên 100-2. Nadal cũng lập kỷ lục khi vô địch 6 Grand Slam sau tuổi 30, nhiều hơn Djokovic và Federer.
Các phản ứng của ba tay vợt hàng đầu thế giới là Rafael Nadal Lưu trữ vào ngày 2020-10-12 tại Wayback Machine, Roger Federer và Novak Djokovic sau chung kết Roland Garros đã bày tỏ nhiều điều.
Federer gửi lời chúc mừng nồng nhiệt đến Nadal sau khi anh giành chức vô địch Roland Garros 2020, đánh dấu Grand Slam thứ 20 trong sự nghiệp của tay vợt Tây Ban Nha.
Nadal và Federer đang là hai tay vợt giữ kỷ lục về số lần vô địch Grand Slam nhiều nhất trong lịch sử quần vợt.
2021: Vô địch Rome Master lần thứ 10 và vấn đề chấn thương.
Tại Úc Mở Rộng 2021, Nadal đã để thua Stefanos Tsitsipas ở tứ kết dù dẫn trước hai set. Đây là lần thứ hai trong sự nghiệp, Nadal thua một trận Grand Slam sau khi dẫn trước hai set.
Trong mùa giải đất nện, Nadal thi đấu tại Monte Carlo Masters, thắng Federico Delbonis và Grigor Dimitrov trước khi thua Andrey Rublev ở tứ kết. Vào ngày 25 tháng 4, Nadal đã giành danh hiệu Barcelona Open lần thứ 12 sau chiến thắng ba set trước Stefanos Tsitsipas, trận chung kết dài nhất trong ba set từ năm 1991. Tiếp tục, Nadal vào tứ kết Madrid Open và vô địch Rome Masters lần thứ 10 sau khi đánh bại Novak Djokovic. Ở Roland Garros, Nadal tranh tài với mục tiêu giành Grand Slam thứ 21. Anh vào bán kết sau các chiến thắng trước Jannik Sinner và Diego Schwartzman, nhưng thua Novak Djokovic ở bán kết, trận thua thứ ba tại Roland Garros. Sau đó, Nadal rút lui khỏi Wimbledon và Thế vận hội.
Nadal trở lại thi đấu tại Citi Open 2021 và tiết lộ chấn thương chân trái tái phát tại Roland Garros là nguyên nhân chính. Anh đánh bại Jack Sock nhưng bị loại bởi Lloyd Harris ở vòng 3. Nadal cũng dự kiến bảo vệ danh hiệu tại Rogers Cup nhưng đã rút lui trước trận đấu đầu tiên vì chấn thương bàn chân. Anh tiếp tục rút khỏi Cincinnati Masters. Vào ngày 20 tháng 8 năm 2021, chỉ 10 ngày trước US Open, Nadal thông báo kết thúc mùa giải do vấn đề chân trái. Anh kết thúc năm ở vị trí thứ 6.
Nadal trở lại thi đấu vào ngày 17 tháng 12 năm 2021 tại giải đấu triển lãm Mubadala ở Abu Dhabi. Anh thua Andy Murray ở bán kết và tiếp tục thất bại trước Denis Shapovalov trong trận tranh hạng ba sau ba set.
2022: Danh hiệu Úc mở rộng lần thứ hai và Grand Slam thứ 21 trong sự nghiệp
Vào tháng Giêng, Nadal đã giành danh hiệu ATP đơn thứ 89 tại Melbourne Summer Set 1 sau chiến thắng trước Maxime Cressy. Sau đó, anh lần lượt vượt qua Karen Khachanov, Denis Shapovalov và Matteo Berrettini để đoạt danh hiệu Úc mở rộng lần thứ hai và Grand Slam thứ 21 khi đánh bại Daniil Medvedev trong trận chung kết kéo dài 5 set. Chiến thắng này giúp Nadal vượt qua Novak Djokovic và Roger Federer để trở thành tay vợt nhiều danh hiệu Grand Slam đơn nam nhất trong lịch sử. Nadal cũng trở thành tay vợt thứ hai trong Kỷ nguyên Mở, sau Djokovic, hoàn thành cú đúp Grand Slam sự nghiệp.
Sau chức vô địch Úc mở rộng, Nadal tiếp tục thắng tại Acapulco, vào chung kết Indian Wells nhưng chỉ thua trước Taylor Fritz. Anh gặp chấn thương xương sườn ở trận bán kết Indian Wells với Carlos Alcaraz, dẫn đến việc rút lui khỏi Monte-Carlo và Barcelona. Nadal trở lại với Madrid Open, thắng Miomir Kecmanovic và David Goffin trước khi để thua Carlos Alcaraz. Tại Italian Open, anh thua Denis Shapovalov và khiến người hâm mộ lo lắng về khả năng tham dự Roland Garros. Dù vậy, Nadal đã chứng minh phong độ bằng cách giành chức vô địch Roland Garros lần thứ 14 và Grand Slam thứ 22 sau khi lần lượt đánh bại Felix Auger-Aliassime, Novak Djokovic, Alexander Zverev và Casper Ruud. Chiến thắng này nới rộng khoảng cách với Djokovic và Federer thành 2 danh hiệu.
Chung kết Grand Slam
Danh hiệu đơn: 30 (22 chiến thắng, 8 lần á quân)
Kết quả | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|
Thắng | 2005 | French Open | Đất nện | Mariano Puerta | 6–7, 6–3, 6–1, 7–5 |
Thắng | 2006 | French Open (2) | Đất nện | Roger Federer | 1–6, 6–1, 6–4, 7–6 |
Thua | 2006 | Wimbledon | Cỏ | Roger Federer | 0–6, 6–7, 7–6, 3–6 |
Thắng | 2007 | French Open (3) | Đất nện | Roger Federer | 6–3, 4–6, 6–3, 6–4 |
Thua | 2007 | Wimbledon | Cỏ | Roger Federer | 6–7, 6–4, 6–7, 6–2, 2–6 |
Thắng | 2008 | French Open (4) | Đất nện | Roger Federer | 6–1, 6–3, 6–0 |
Thắng | 2008 | Wimbledon | Cỏ | Roger Federer | 6–4, 6–4, 6–7, 6–7, 9–7 |
Thắng | 2009 | Australian Open | Cứng | Roger Federer | 7–5, 3–6, 7–6, 3–6, 6–2 |
Thắng | 2010 | French Open (5) | Đất nện | Robin Söderling | 6–4, 6–2, 6–4 |
Thắng | 2010 | Wimbledon (2) | Cỏ | Tomáš Berdych | 6–3, 7–5, 6–4 |
Thắng | 2010 | US Open | Cứng | Novak Djokovic | 6–4, 5–7, 6–4, 6–2 |
Thắng | 2011 | French Open (6) | Đất nện | Roger Federer | 7–5, 7–6, 5–7, 6–1 |
Thua | 2011 | Wimbledon | Cỏ | Novak Djokovic | 4–6, 1–6, 6–1, 3–6 |
Thua | 2011 | US Open | Cứng | Novak Djokovic | 2–6, 4–6, 7–6, 1–6 |
Thua | 2012 | Australian Open | Cứng | Novak Djokovic | 7–5, 4–6, 2–6, 7–6, 5–7 |
Thắng | 2012 | French Open (7) | Đất nện | Novak Djokovic | 6–4, 6–3, 2–6, 7–5 |
Thắng | 2013 | French Open (8) | Đất nện | David Ferrer | 6–3, 6–2, 6–3 |
Thắng | 2013 | US Open (2) | Cứng | Novak Djokovic | 6–2, 3–6, 6–4, 6–1 |
Thua | 2014 | Australian Open | Cứng | Stan Wawrinka | 3–6, 2–6, 6–3, 3–6 |
Thắng | 2014 | French Open (9) | Đất nện | Novak Djokovic | 3–6, 7–5, 6–2, 6–4 |
Thua | 2017 | Australian Open | Cứng | Roger Federer | 4–6, 6–3, 1–6, 6–3, 3–6 |
Thắng | 2017 | French Open (10) | Đất nện | Stan Wawrinka | 6–2, 6–3, 6–1 |
Thắng | 2017 | US Open (3) | Cứng | Kevin Anderson | 6–3, 6–3, 6–4 |
Thắng | 2018 | French Open (11) | Đất nện | Dominic Thiem | 6–4, 6–3, 6–2 |
Thua | 2019 | Australian Open | Cứng | Novak Djokovic | 3–6, 2–6, 3–6 |
Thắng | 2019 | French Open (12) | Đất nện | Dominic Thiem | 6–3, 5–7, 6–1, 6–1 |
Thắng | 2019 | US Open (4) | Cứng | Daniil Medvedev | 7–5, 6–3, 5–7, 4–6, 6–4 |
Thắng | 2020 | French Open (13) | Đất nện | Novak Djokovic | 6–0, 6–2, 7–5 |
Thắng | 2022 | Australian Open (2) | Cứng | Daniil Medvedev | 2–6, 6–7, 6–4, 6–4, 7–5 |
Thắng | 2022 | French Open (14) | Đất nện | Casper Ruud | 6–3, 6–3, 6–0 |
Chung kết ATP Finals
Danh hiệu đơn: 2 (2 lần á quân)
Kết quả | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|
Thua | 2010 | ATP Finals | Cứng (i) | Roger Federer | 3–6, 6–3, 1–6 |
Thua | 2013 | ATP Finals | Cứng (i) | Novak Djokovic | 3–6, 4–6 |
Chung kết Masters 1000
Danh hiệu đơn: 53 (36 chiến thắng, 17 lần á quân)
Kết quả | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|
Thua | 2005 | Miami Open | Cứng | Roger Federer | 6–2, 7–6, 6–7, 3–6, 1–6 |
Thắng | 2005 | Monte-Carlo Masters | Đất nện | Guillermo Coria | 6–3, 6–1, 0–6, 7–5 |
Thắng | 2005 | Italian Open | Đất nện | Guillermo Coria | 6–4, 3–6, 6–3, 4–6, 7–6 |
Thắng | 2005 | Canadian Open | Cứng | Andre Agassi | 6–3, 4–6, 6–2 |
Thắng | 2005 | Madrid Open | Cứng (i) | Ivan Ljubičić | 3–6, 2–6, 6–3, 6–4, 7–6 |
Thắng | 2006 | Monte-Carlo Masters (2) | Đất nện | Roger Federer | 6–2, 6–7, 6–3, 7–6 |
Thắng | 2006 | Italian Open (2) | Đất nện | Roger Federer | 6–7, 7–6, 6–4, 2–6, 7–6 |
Thắng | 2007 | Indian Wells Masters | Cứng | Novak Djokovic | 6–2, 7–5 |
Thắng | 2007 | Monte-Carlo Masters (3) | Đất nện | Roger Federer | 6–4, 6–4 |
Thắng | 2007 | Italian Open (3) | Đất nện | Fernando González | 6–2, 6–2 |
Thua | 2007 | German Open | Đất nện | Roger Federer | 6–2, 2–6, 0–6 |
Thua | 2007 | Paris Masters | Cứng (i) | David Nalbandian | 4–6, 0–6 |
Thua | 2008 | Miami Open | Cứng | Nikolay Davydenko | 4–6, 2–6 |
Thắng | 2008 | Monte-Carlo Masters (4) | Đất nện | Roger Federer | 7–5, 7–5 |
Thắng | 2008 | German Open | Đất nện | Roger Federer | 7–5, 6–7, 6–3 |
Thắng | 2008 | Canadian Open (2) | Cứng | Nicolas Kiefer | 6–3, 6–2 |
Thắng | 2009 | Indian Wells Masters (2) | Cứng | Andy Murray | 6–1, 6–2 |
Thắng | 2009 | Monte-Carlo Masters (5) | Đất nện | Novak Djokovic | 6–3, 2–6, 6–1 |
Thắng | 2009 | Italian Open (4) | Đất nện | Novak Djokovic | 7–6, 6–2 |
Thua | 2009 | Madrid Open | Đất nện | Roger Federer | 4–6, 4–6 |
Thua | 2009 | Shanghai Masters | Cứng | Nikolay Davydenko | 6–7, 3–6 |
Thắng | 2010 | Monte-Carlo Masters (6) | Đất nện | Fernando Verdasco | 6–0, 6–1 |
Thắng | 2010 | Italian Open (5) | Đất nện | David Ferrer | 7–5, 6–2 |
Thắng | 2010 | Madrid Open (2) | Đất nện | Roger Federer | 6–4, 7–6 |
Thua | 2011 | Indian Wells Masters | Cứng | Novak Djokovic | 6–4, 3–6, 2–6 |
Thua | 2011 | Miami Open | Cứng | Novak Djokovic | 6–4, 3–6, 6–7 |
Thắng | 2011 | Monte-Carlo Masters (7) | Đất nện | David Ferrer | 6–4, 7–5 |
Thua | 2011 | Madrid Open | Đất nện | Novak Djokovic | 5–7, 4–6 |
Thua | 2011 | Italian Open | Đất nện | Novak Djokovic | 4–6, 4–6 |
Thắng | 2012 | Monte-Carlo Masters (8) | Đất nện | Novak Djokovic | 6–3, 6–1 |
Thắng | 2012 | Italian Open (6) | Đất nện | Novak Djokovic | 7–5, 6–3 |
Thắng | 2013 | Indian Wells Masters (3) | Cứng | Juan Martín del Potro | 4–6, 6–3, 6–4 |
Thua | 2013 | Monte-Carlo Masters | Đất nện | Novak Djokovic | 2–6, 6–7 |
Thắng | 2013 | Madrid Open (3) | Đất nện | Stanislas Wawrinka | 6–2, 6–4 |
Thắng | 2013 | Italian Open (7) | Đất nện | Roger Federer | 6–1, 6–3 |
Thắng | 2013 | Canadian Open (3) | Cứng | Milos Raonic | 6–2, 6–2 |
Thắng | 2013 | Cincinnati Masters | Cứng | John Isner | 7–6, 7–6 |
Thua | 2014 | Miami Open | Hard | Novak Djokovic | 3–6, 3–6 |
Thắng | 2014 | Madrid Open (4) | Đất nện | Kei Nishikori | 2–6, 6–4, 3–0 ret. |
Thua | 2014 | Italian Open | Đất nện | Novak Djokovic | 6–4, 3–6, 3–6 |
Thua | 2015 | Madrid Open | Đất nện | Andy Murray | 3–6, 2–6 |
Thắng | 2016 | Monte-Carlo Masters (9) | Đất nện | Gaël Monfils | 7–5, 5–7, 6–0 |
Thua | 2017 | Miami Open | Cứng | Roger Federer | 3–6, 4–6 |
Thắng | 2017 | Monte-Carlo Masters (10) | Đất nện | Albert Ramos Viñolas | 6–1, 6–3 |
Thắng | 2017 | Madrid Open (5) | Đất nện | Dominic Thiem | 7–6, 6–4 |
Thua | 2017 | Shanghai Masters | Cứng | Roger Federer | 4–6, 3–6 |
Thắng | 2018 | Monte-Carlo Masters (11) | Đất nện | Kei Nishikori | 6–3, 6–2 |
Thắng | 2018 | Italian Open (8) | Đất nện | Alexander Zverev | 6–1, 1–6, 6–3 |
Thắng | 2018 | Canadian Open (4) | Cứng | Stefanos Tsitsipas | 6–2, 7–6 |
Thắng | 2019 | Italian Open (9) | Đất nện | Novak Djokovic | 6–0, 4–6, 6–1 |
Thắng | 2019 | Canadian Open (5) | Cứng | Daniil Medvedev | 6–3, 6–0 |
Thắng | 2021 | Italian Open (10) | Đất nện | Novak Djokovic | 7–5, 1–6, 6–3 |
Thua | 2022 | Indian Wells Masters | Cứng | Taylor Fritz | 3–6, 6–7 |
Danh hiệu đôi: 3 (3 lần vô địch)
Kết quả | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|---|
Thắng | 2008 | Monte-Carlo Masters | Đất nện | Tommy Robredo | Mahesh Bhupathi Mark Knowles |
6–3, 6–3 |
Thắng | 2010 | Indian Wells Masters | Cứng | Marc López | Daniel Nestor Nenad Zimonjić |
7–6, 6–3 |
Thắng | 2012 | Indian Wells Masters (2) | Cứng | Marc López | John Isner Sam Querrey |
6–2, 7–6 |
Tranh huy chương Olympic
Danh hiệu đơn: 2 (1 huy chương vàng)
Kết quả | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|
Vàng | 2008 | Summer Olympics (Beijing) | Hard | Fernando González | 6–3, 7–6, 6–3 |
Hạng tư | 2016 | Summer Olympics (Rio) | Hard | Kei Nishikori | 2–6, 7–6, 3–6 |
Danh hiệu đôi: 1 (1 huy chương vàng)
Kết quả | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|---|
Vàng | 2016 | Summer Olympics (Rio) | Cứng | Marc López | Florin Mergea Horia Tecău |
6–2, 3–6, 6–4 |
Chung kết ATP
Danh hiệu đơn: 130 (92 vô địch, 38 á quân)
|
|
|
(*) Biểu thị các giải đấu mà Nadal vô địch mà không để thua set nào. Anh hiện là tay vợt có nhiều danh hiệu sạch set nhất trong Kỷ nguyên Mở với 30 danh hiệu.
(**) Biểu thị các giải đấu mà Nadal giành chiến thắng sau khi cứu ít nhất một điểm match point. Anh cùng Novak Djokovic và Thomas Muster là những tay vợt có nhiều danh hiệu nhất sau khi cứu điểm match point trong Kỷ nguyên Mở (7 danh hiệu).
Kết quả | Thắng-Thua | Ngày | Giải đấu | Cấp độ | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|---|---|
Thua | 0–1 | Th1 năm 2004 | Auckland Open, New Zealand | International | Cứng | Dominik Hrbatý | 6–4, 2–6, 5–7 |
Thắng | 1–1 | Th8 năm 2004 | Orange Prokom Open, Ba Lan* | International | Đất nện | José Acasuso | 6–3, 6–4 |
Thắng | 2–1 | Th2 năm 2005 | Brasil Open, Brazil | International | Đất nện | Alberto Martín | 6–0, 6–7, 6–1 |
Thắng | 3–1 | Th2 năm 2005 | Mexican Open, Mexico* | Intl. Gold | Đất nện | Albert Montañés | 6–1, 6–0 |
Thua | 3–2 | Th4 năm 2005 | Miami Open, Mỹ | Masters | Cứng | Roger Federer | 6–2, 7–6, 6–7, 3–6, 1–6 |
Thắng | 4–2 | Th4 năm 2005 | Monte-Carlo Masters, Monaco | Masters | Đất nện | Guillermo Coria | 6–3, 6–1, 0–6, 7–5 |
Thắng | 5–2 | Th4 năm 2005 | Barcelona Open, Tây Ban Nha* | Intl. Gold | Đất nện | Juan Carlos Ferrero | 6–1, 7–6, 6–3 |
Thắng | 6–2 | tháng 5 năm 2005 | Italian Open, Ý | Masters | Đất nện | Guillermo Coria | 6–4, 3–6, 6–3, 4–6, 7–6 |
Thắng | 7–2 | Th6 năm 2005 | French Open, Pháp | Grand Slam | Đất nện | Mariano Puerta | 6–7, 6–3, 6–1, 7–5 |
Thắng | 8–2 | Th7 năm 2005 | Swedish Open, Thụy Điển | International | Đất nện | Tomáš Berdych | 2–6, 6–2, 6–4 |
Thắng | 9–2 | Th7 năm 2005 | Stuttgart Open, Đức* | Intl. Gold | Đất nện | Gastón Gaudio | 6–3, 6–3, 6–4 |
Thắng | 10–2 | Th8 năm 2005 | Canadian Open, Canada | Masters | Cứng | Andre Agassi | 6–3, 4–6, 6–2 |
Thắng | 11–2 | Th9 năm 2005 | China Open, Trung Quốc | International | Cứng | Guillermo Coria | 5–7, 6–1, 6–2 |
Thắng | 12–2 | Th10 năm 2005 | Madrid Open, Tây Ban Nha | Masters | Cứng (i) | Ivan Ljubičić | 3–6, 2–6, 6–3, 6–4, 7–6 |
Thắng | 13–2 | Th3 năm 2006 | Dubai Championships, UAE | Intl. Gold | Cứng | Roger Federer | 2–6, 6–4, 6–4 |
Thắng | 14–2 | Th4 năm 2006 | Monte-Carlo Masters, Monaco (2) | Masters | Đất nện | Roger Federer | 6–2, 6–7, 6–3, 7–6 |
Thắng | 15–2 | Th4 năm 2006 | Barcelona Open, Tây Ban Nha (2) | Intl. Gold | Đất nện | Tommy Robredo | 6–4, 6–4, 6–0 |
Thắng | 16–2 | tháng 5 năm 2006 | Italian Open, Ý** (2) | Masters | Đất nện | Roger Federer | 6–7, 7–6, 6–4, 2–6, 7–6 |
Thắng | 17–2 | tháng 6 năm 2006 | French Open, Pháp (2) | Grand Slam | Đất nện | Roger Federer | 1–6, 6–1, 6–4, 7–6 |
Thua | 17–3 | tháng 7 năm 2006 | Wimbledon, Vương quốc Anh | Grand Slam | Cỏ | Roger Federer | 0–6, 6–7, 7–6, 3–6 |
Thắng | 18–3 | Th3 năm 2007 | Indian Wells Masters, Mỹ* | Masters | Cứng | Novak Djokovic | 6–2, 7–5 |
Thắng | 19–3 | Th4 năm 2007 | Monte-Carlo Masters, Monaco* (3) | Masters | Đất nện | Roger Federer | 6–4, 6–4 |
Thắng | 20–3 | Th4 năm 2007 | Barcelona Open, Tây Ban Nha* (3) | Intl. Gold | Đất nện | Guillermo Cañas | 6–3, 6–4 |
Thắng | 21–3 | tháng 5 năm 2007 | Italian Open, Ý (3) | Masters | Đất nện | Fernando González | 6–2, 6–2 |
Thua | 21–4 | tháng 5 năm 2007 | German Open, Đức | Masters | Đất nện | Roger Federer | 6–2, 2–6, 0–6 |
Thắng | 22–4 | Th6 năm 2007 | French Open, Pháp (3) | Grand Slam | Đất nện | Roger Federer | 6–3, 4–6, 6–3, 6–4 |
Thua | 22–5 | Th7 năm 2007 | Wimbledon, Vương quốc Anh | Grand Slam | Cỏ | Roger Federer | 6–7, 6–4, 6–7, 6–2, 2–6 |
Thắng | 23–5 | Th7 năm 2007 | Stuttgart Open, Đức* (2) | Intl. Gold | Đất nện | Stanislas Wawrinka | 6–4, 7–5 |
Thua | 23–6 | Th11 năm 2007 | Paris Masters, Pháp | Masters | Cứng (i) | David Nalbandian | 4–6, 0–6 |
Thua | 23–7 | Th1 năm 2008 | Maharashtra Open, Ấn Độ | International | Cứng | Mikhail Youzhny | 0–6, 1–6 |
Thua | 23–8 | Th4 năm 2008 | Miami Open, mỹ | Masters | Cứng | Nikolay Davydenko | 4–6, 2–6 |
Thắng | 24–8 | Th4 năm 2008 | Monte-Carlo Masters, Monaco* (4) | Masters | Đất nện | Roger Federer | 7–5, 7–5 |
Thắng | 25–8 | tháng 5 năm 2008 | Barcelona Open, Tây Ban Nha (4) | Intl. Gold | Đất nện | David Ferrer | 6–1, 4–6, 6–1 |
Thắng | 26–8 | tháng 5 năm 2008 | German Open, Đức | Masters | Đất nện | Roger Federer | 7–5, 6–7, 6–3 |
Thắng | 27–8 | Th6 năm 2008 | French Open, Pháp* (4) | Grand Slam | Đất nện | Roger Federer | 6–1, 6–3, 6–0 |
Thắng | 28–8 | Th6 năm 2008 | Queen's Club Championships, Vương quốc Anh | International | Cỏ | Novak Djokovic | 7–6, 7–5 |
Thắng | 29–8 | Th7 năm 2008 | Wimbledon, Vương quốc Anh | Grand Slam | Cỏ | Roger Federer | 6–4, 6–4, 6–7, 6–7, 9–7 |
Thắng | 30–8 | Th7 năm 2008 | Canadian Open, Canada (2) | Masters | Cứng | Nicolas Kiefer | 6–3, 6–2 |
Thắng | 31–8 | Th8 năm 2008 | Summer Olympics, Trung Quốc | Olympics | Cứng | Fernando González | 6–3, 7–6, 6–3 |
Thắng | 32–8 | Th2 năm 2009 | Australian Open, Australia | Grand Slam | Cứng | Roger Federer | 7–5, 3–6, 7–6, 3–6, 6–2 |
Thua | 32–9 | Th2 năm 2009 | Rotterdam Open, Hà Lan | 500 Series | Cứng (i) | Andy Murray | 3–6, 6–4, 0–6 |
Thắng | 33–9 | Th3 năm 2009 | Indian Wells Masters, Mỹ** (2) | Masters 1000 | Cứng | Andy Murray | 6–1, 6–2 |
Thắng | 34–9 | Th4 năm 2009 | Monte-Carlo Masters, Monaco (5) | Masters 1000 | Đất nện | Novak Djokovic | 6–3, 2–6, 6–1 |
Thắng | 35–9 | Th4 năm 2009 | Barcelona Open, Tây Ban Nha* (5) | 500 Series | Đất nện | David Ferrer | 6–2, 7–5 |
Thắng | 36–9 | tháng 5 năm 2009 | Italian Open, Ý* (4) | Masters 1000 | Đất nện | Novak Djokovic | 7–6, 6–2 |
Thua | 36–10 | tháng 5 năm 2009 | Madrid Open, Tây Ban Nha | Masters 1000 | Đất nện | Roger Federer | 4–6, 4–6 |
Thua | 36–11 | Th10 năm 2009 | Shanghai Masters, Trung Quốc | Masters 1000 | Cứng | Nikolay Davydenko | 6–7, 3–6 |
Thua | 36–12 | Th1 năm 2010 | Qatar Open, Qatar | 250 Series | Cứng | Nikolay Davydenko | 6–0, 6–7, 4–6 |
Thắng | 37–12 | Th4 năm 2010 | Monte-Carlo Masters, Monaco* (6) | Masters 1000 | Đất nện | Fernando Verdasco | 6–0, 6–1 |
Thắng | 38–12 | tháng 5 năm 2010 | Italian Open, Ý (5) | Masters 1000 | Đất nện | David Ferrer | 7–5, 6–2 |
Thắng | 39–12 | tháng 5 năm 2010 | Madrid Open, Tây Ban Nha (2) | Masters 1000 | Đất nện | Roger Federer | 6–4, 7–6 |
Thắng | 40–12 | Th6 năm 2010 | French Open, Pháp* (5) | Grand Slam | Đất nện | Robin Söderling | 6–4, 6–2, 6–4 |
Thắng | 41–12 | Th7 năm 2010 | Wimbledon, United Kingdom (2) | Grand Slam | Cỏ | Tomáš Berdych | 6–3, 7–5, 6–4 |
Thắng | 42–12 | Th9 năm 2010 | US Open, Mỹ | Grand Slam | Hard | Novak Djokovic | 6–4, 5–7, 6–4, 6–2 |
Thắng | 43–12 | Th10 năm 2010 | Japan Open, Nhật Bản** | 500 Series | Cứng | Gaël Monfils | 6–1, 7–5 |
Thua | 43–13 | Th11 năm 2010 | ATP World Tour Finals, Vương quốc Anh | ATP finals | Cứng (i) | Roger Federer | 3–6, 6–3, 1–6 |
Thua | 43–14 | Th3 năm 2011 | Indian Wells Masters, Mỹ | Masters 1000 | Cứng | Novak Djokovic | 6–4, 3–6, 2–6 |
Thua | 43–15 | Th4 năm 2011 | Miami Open, Mỹ | Masters 1000 | Cứng | Novak Djokovic | 6–4, 3–6, 6–7 |
Thắng | 44–15 | Th4 năm 2011 | Monte-Carlo Masters, Monaco (7) | Masters 1000 | Đất nện | David Ferrer | 6–4, 7–5 |
Thắng | 45–15 | Th4 năm 2011 | Barcelona Open, Tây Ban Nha* (6) | 500 Series | Đất nện | David Ferrer | 6–2, 6–4 |
Thua | 45–16 | tháng 5 năm 2011 | Madrid Open, Tây Ban Nha | Masters 1000 | Đất nện | Novak Djokovic | 5–7, 4–6 |
Thua | 45–17 | tháng 5 năm 2011 | Italian Open, Ý | Masters 1000 | Đất nện | Novak Djokovic | 4–6, 4–6 |
Thắng | 46–17 | Th6 năm 2011 | French Open, Pháp (6) | Grand Slam | Đất nện | Roger Federer | 7–5, 7–6, 5–7, 6–1 |
Thua | 46–18 | Th7 năm 2011 | Wimbledon, Vương quốc Anh | Grand Slam | Grass | Novak Djokovic | 4–6, 1–6, 6–1, 3–6 |
Thua | 46–19 | Th9 năm 2011 | US Open, Mỹ | Grand Slam | Cứng | Novak Djokovic | 2–6, 4–6, 7–6, 1–6 |
Thua | 46–20 | Th10 năm 2011 | Japan Open, Nhật Bản | 500 Series | Cứng | Andy Murray | 6–3, 2–6, 0–6 |
Thua | 46–21 | Th1 năm 2012 | Australian Open, Australia | Grand Slam | Cứng | Novak Djokovic | 7–5, 4–6, 2–6, 7–6, 5–7 |
Thắng | 47–21 | Th4 năm 2012 | Monte-Carlo Masters, Monaco* (8) | Masters 1000 | Đất nện | Novak Djokovic | 6–3, 6–1 |
Thắng | 48–21 | Th4 năm 2012 | Barcelona Open, Tây Ban Nha* (7) | 500 Series | Đất nện | David Ferrer | 7–6, 7–5 |
Thắng | 49–21 | tháng 5 năm 2012 | Italian Open, Ý* (6) | Masters 1000 | Đất nện | Novak Djokovic | 7–5, 6–3 |
Thắng | 50–21 | Th6 năm 2012 | French Open, Pháp (7) | Grand Slam | Đất nện | Novak Djokovic | 6–4, 6–3, 2–6, 7–5 |
Thua | 50–22 | Th2 năm 2013 | Chile Open, Chile | 250 Series | Đất nện | Horacio Zeballos | 7–6, 6–7, 4–6 |
Thắng | 51–22 | Th2 năm 2013 | Brasil Open, Brazil (2) | 250 Series | Đất nện (i) | David Nalbandian | 6–2, 6–3 |
Thắng | 52–22 | Th3 năm 2013 | Mexican Open, Mexico* (2) | 500 Series | Đất nện | David Ferrer | 6–0, 6–2 |
Thắng | 53–22 | Th3 năm 2013 | Indian Wells Masters, Mỹ (3) | Masters 1000 | Cứng | Juan Martín del Potro | 4–6, 6–3, 6–4 |
Thua | 53–23 | Th4 năm 2013 | Monte-Carlo Masters, Monaco | Masters 1000 | Đất nện | Novak Djokovic | 2–6, 6–7 |
Thắng | 54–23 | Th4 năm 2013 | Barcelona Open, Tây Ban Nha* (8) | 500 Series | Đất nện | Nicolás Almagro | 6–4, 6–3 |
Thấng | 55–23 | tháng 5 năm 2013 | Madrid Open, Tây Ban Nha (3) | Masters 1000 | Đất nện | Stanislas Wawrinka | 6–2, 6–4 |
Thắng | 56–23 | tháng 5 năm 2013 | Italian Open, Ý (7) | Masters 1000 | Đất nện | Roger Federer | 6–1, 6–3 |
Thắng | 57–23 | Th6 năm 2013 | French Open, Pháp (8) | Grand Slam | Đất nện | David Ferrer | 6–3, 6–2, 6–3 |
Thắng | 58–23 | Th8 năm 2013 | Canadian Open, Canada (3) | Masters 1000 | Cứng | Milos Raonic | 6–2, 6–2 |
Thắng | 59–23 | Th8 năm 2013 | Cincinnati Masters, Mỹ | Masters 1000 | Cứng | John Isner | 7–6, 7–6 |
Thắng | 60–23 | Th9 năm 2013 | US Open, Mỹ (2) | Grand Slam | Cứng | Novak Djokovic | 6–2, 3–6, 6–4, 6–1 |
Thua | 60–24 | Th10 năm 2013 | China Open, Trung Quốc | 500 Series | Cứng | Novak Djokovic | 3–6, 4–6 |
Thua | 60–25 | Th11 năm 2013 | ATP World Tour Finals, Vương quốc Anh | ATP finals | Cứng (i) | Novak Djokovic | 3–6, 4–6 |
Thắng | 61–25 | Th1 năm 2014 | Qatar Open, Qatar | 250 Series | Cứng | Gaël Monfils | 6–1, 6–7, 6–2 |
Thua | 61–26 | Th1 năm 2014 | Australian Open, Australia | Grand Slam | Cứng | Stanislas Wawrinka | 3–6, 2–6, 6–3, 3–6 |
Thắng | 62–26 | Th2 năm 2014 | Rio Open, Brazil** | 500 Series | Đất nện | Alexandr Dolgopolov | 6–3, 7–6 |
Thua | 62–27 | Th4 năm 2014 | Miami Open, Mỹ | Masters 1000 | Cứng | Novak Djokovic | 3–6, 3–6 |
Thắng | 63–27 | tháng 5 năm 2014 | Madrid Open, Tây Ban Nha (4) | Masters 1000 | Đất nện | Kei Nishikori | 2–6, 6–4, 3–0 ret. |
Thua | 63–28 | tháng 5 năm 2014 | Italian Open, Ý | Masters 1000 | Đất nện | Novak Djokovic | 6–4, 3–6, 3–6 |
Thắng | 64–28 | Th6 năm 2014 | French Open, Pháp (9) | Grand Slam | Đất nện | Novak Djokovic | 3–6, 7–5, 6–2, 6–4 |
Thắng | 65–28 | Th3 năm 2015 | Argentina Open, Argentina* | 250 Series | Đất nện | Juan Mónaco | 6–4, 6–1 |
Thua | 65–29 | tháng 5 năm 2015 | Madrid Open, Tây Ban Nha | Masters 1000 | Đất nện | Andy Murray | 3–6, 2–6 |
Thắng | 66–29 | Th6 năm 2015 | Stuttgart Open, Đức (3) | 250 Series | Cỏ | Viktor Troicki | 7–6, 6–3 |
Thắng | 67–29 | Th8 năm 2015 | German Open, Đức (2) | 500 Series | Đất nện | Fabio Fognini | 7–5, 7–5 |
Thua | 67–30 | Th10 năm 2015 | China Open, Trung Quốc | 500 Series | Cứng | Novak Djokovic | 2–6, 2–6 |
Thua | 67–31 | Th11 năm 2015 | Swiss Indoors, Thụy Sĩ | 500 Series | Cứng (i) | Roger Federer | 3–6, 7–5, 3–6 |
Thua | 67–32 | Th1 năm 2016 | Qatar Open, Qatar | 250 Series | Cứng | Novak Djokovic | 1–6, 2–6 |
Thắng | 68–32 | Th4 năm 2016 | Monte-Carlo Masters, Monaco (9) | Masters 1000 | Đất nện | Gaël Monfils | 7–5, 5–7, 6–0 |
Thắng | 69–32 | Th4 năm 2016 | Barcelona Open, Tây Ban Nha* (9) | 500 Series | Đất nện | Kei Nishikori | 6–4, 7–5 |
Thua | 69–33 | Th1 năm 2017 | Australian Open, Australia | Grand Slam | Cứng | Roger Federer | 4–6, 6–3, 1–6, 6–3, 3–6 |
Thua | 69–34 | Th3 năm 2017 | Mexican Open, Mexico | 500 Series | Cứng | Sam Querrey | 3–6, 6–7 |
Thua | 69–35 | Th4 năm 2017 | Miami Open, Mỹ | Masters 1000 | Cứng | Roger Federer | 3–6, 4–6 |
Thắng | 70–35 | Th4 năm 2017 | Monte-Carlo Masters, Monaco (10) | Masters 1000 | Đất nện | Albert Ramos Viñolas | 6–1, 6–3 |
Thắng | 71–35 | Th4 năm 2017 | Barcelona Open, Tây Ban Nha* (10) | 500 Series | Đất nện | Dominic Thiem | 6–4, 6–1 |
Thắng | 72–35 | tháng 5 năm 2017 | Madrid Open, Tây Ban Nha (5) | Masters 1000 | Đất nện | Dominic Thiem | 7–6, 6–4 |
Thắng | 73–35 | Th6 năm 2017 | French Open, Pháp* (10) | Grand Slam | Đất nện | Stan Wawrinka | 6–2, 6–3, 6–1 |
Thắng | 74–35 | Th9 năm 2017 | US Open, United States (3) | Grand Slam | Cứng | Kevin Anderson | 6–3, 6–3, 6–4 |
Thắng | 75–35 | Th10 năm 2017 | China Open, Trung Quốc** (2) | 500 Series | Cứng | Nick Kyrgios | 6–2, 6–1 |
Thua | 75–36 | Th10 năm 2017 | Shanghai Masters, Trung Quốc | Masters 1000 | Cứng | Roger Federer | 4–6, 3–6 |
Thắng | 76–36 | Th4 năm 2018 | Monte-Carlo Masters, Monaco* (11) | Masters 1000 | Đất nện | Kei Nishikori | 6–3, 6–2 |
Thắng | 77–36 | Th4 năm 2018 | Barcelona Open, Tây Ban Nha* (11) | 500 Series | Đất nện | Stefanos Tsitsipas | 6–2, 6–1 |
Thắng | 78–36 | tháng 5 năm 2018 | Italian Open, Ý (8) | Masters 1000 | Đất nện | Alexander Zverev | 6–1, 1–6, 6–3 |
Thắng | 79–36 | Th6 năm 2018 | French Open, Pháp (11) | Grand Slam | Đất nện | Dominic Thiem | 6–4, 6–3, 6–2 |
Thắng | 80–36 | Th8 năm 2018 | Canadian Open, Canada (4) | Masters 1000 | Cứng | Stefanos Tsitsipas | 6–2, 7–6 |
Thua | 80–37 | Th1 năm 2019 | Australian Open, Australia | Grand Slam | Cứng | Novak Djokovic | 3–6, 2–6, 3–6 |
Thắng | 81–37 | tháng 5 năm 2019 | Italian Open, Ý (9) | Masters 1000 | Đất nện | Novak Djokovic | 6–0, 4–6, 6–1 |
Thắng | 82–37 | Th6 năm 2019 | French Open, Pháp (12) | Grand Slam | Đất nện | Dominic Thiem | 6–3, 5–7, 6–1, 6–1 |
Thắng | 83–37 | Th8 năm 2019 | Canadian Open, Canada (5) | Masters 1000 | Cứng | Daniil Medvedev | 6–3, 6–0 |
Thắng | 84–37 | Th9 năm 2019 | US Open, Mỹ (4) | Grand Slam | Cứng | Daniil Medvedev | 7–5, 6–3, 5–7, 4–6, 6–4 |
Thắng | 85–37 | Th2 năm 2020 | Mexican Open, Mexico* (3) | 500 Series | Cứng | Taylor Fritz | 6–3, 6–2 |
Thắng | 86–37 | Th10 năm 2020 | French Open, Pháp* (13) | Grand Slam | Đất nện | Novak Djokovic | 6–0, 6–2, 7–5 |
Thắng | 87–37 | Th4 năm 2021 | Barcelona Open, Tây Ban Nha** (12) | 500 Series | Đất nện | Stefanos Tsitsipas | 6–4, 6–7, 7–5 |
Thắng | 88–37 | tháng 5 năm 2021 | Italian Open, Ý** (10) | Masters 1000 | Đất nện | Novak Djokovic | 7–5, 1–6, 6–3 |
Thắng | 89–37 | Th1 năm 2022 | Melbourne Summer Set, Australia* | 250 Series | Cứng | Maxime Cressy | 7–6, 6–3 |
Thắng | 90–37 | Th1 năm 2022 | Australian Open, Australia (2) | Grand Slam | Cứng | Daniil Medvedev | 2–6, 6–7, 6–4, 6–4, 7–5 |
Thắng | 91–37 | Th2 năm 2022 | Mexican Open, Mexico* (4) | 500 Series | Cứng | Cameron Norrie | 6–4, 6–4 |
Thua | 91–38 | Th3 năm 2022 | Indian Wells Masters, Mỹ | Masters 1000 | Cứng | Taylor Fritz | 3–6, 6–7 |
Thắng | 92–38 | Th6 năm 2022 | French Open, Pháp (14) | Grand Slam | Đất nện | Casper Ruud | 6–3, 6–3, 6–0 |
Danh hiệu đôi: 15 (11 vô địch, 4 á quân)
|
|
|
(*) Biểu thị các giải đấu mà Nadal và đối tác của anh vô địch mà không để thua set nào.
(**) Biểu thị các giải đấu mà Nadal và đồng đội của anh đã đăng quang sau khi cứu ít nhất một điểm match point.
Kết quả | Thắng-Thua | Ngày | Giải đấu | Cấp độ | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Thắng | 1–0 | Th7 năm 2003 | Croatia Open, Croatia | International | Đất nện | Álex López Morón | Todd Perry Thomas Shimada |
6–1, 6–3 |
Thắng | 2–0 | Th1 năm 2004 | Maharashtra Open, Ấn Độ | International | Cứng | Tommy Robredo | Jonathan Erlich Andy Ram |
7–6, 4–6, 6–3 |
Thắng | 3–0 | Th1 năm 2005 | Qatar Open, Qatar | International | Cứng | Albert Costa | Andrei Pavel Mikhail Youzhny |
6–3, 4–6, 6–3 |
Thua | 3–1 | Th4 năm 2005 | Barcelona Open, Tây Ban Nha | Intl. Gold | Đất nện | Feliciano López | Leander Paes Nenad Zimonjić |
3–6, 3–6 |
Thua | 3–2 | Th1 năm 2007 | Maharashtra Open, Ấn Độ | International | Cứng | Tomeu Salvà | Xavier Malisse Dick Norman |
6–7, 6–7 |
Thua | 3–3 | Th4 năm 2007 | Barcelona Open, Tây Ban Nha | Intl. Gold | Đất nện | Tomeu Salvà | Andrei Pavel Alexander Waske |
3–6, 6–7 |
Thắng | 4–3 | Th4 năm 2008 | Monte-Carlo Masters, Pháp | Masters | Đất nện | Tommy Robredo | Mahesh Bhupathi Mark Knowles |
6–3, 6–3 |
Thắng | 5–3 | Th1 năm 2009 | Qatar Open, Qatar** (2) | 250 Series | Cứng | Marc López | Daniel Nestor Nenad Zimonjić |
4–6, 6–4, [10–8] |
Thắng | 6–3 | Th3 năm 2010 | Indian Wells Masters, Mỹ | Masters 1000 | Cứng | Marc López | Daniel Nestor Nenad Zimonjić |
7–6, 6–3 |
Thắng | 7–3 | Th1 năm 2011 | Qatar Open, Qatar (3) | 250 Series | Cứng | Marc López | Daniele Bracciali Andreas Seppi |
6–3, 7–6 |
Thắng | 8–3 | Th3 năm 2012 | Indian Wells Masters, Mỹ* (2) | Masters 1000 | Cứng | Marc López | John Isner Sam Querrey |
6–2, 7–6 |
Thua | 8–4 | Th2 năm 2013 | Chile Open, Chile | 250 Series | Đất nện | Juan Mónaco | Paolo Lorenzi Potito Starace |
2–6, 4–6 |
Thắng | 9–4 | Th1 năm 2015 | Qatar Open, Qatar (4) | 250 Series | Cứng | Juan Mónaco | Julian Knowle Philipp Oswald |
6–3, 6–4 |
Thắng | 10–4 | Th8 năm 2016 | Summer Olympics, Brazil | Olympics | Cứng | Marc López | Florin Mergea Horia Tecău |
6–2, 3–6, 6–4 |
Thắng | 11–4 | Th10 năm 2016 | China Open, Trung Quốc | 500 Series | Cứng | Pablo Carreño Busta | Jack Sock Bernard Tomic |
6–7, 6–2, [10–8] |
Các kỷ lục
Kỷ lục tại các giải Grand Slam
- Những kỷ lục này chỉ áp dụng trong Kỷ nguyên Mở rộng.
Các giải Grand Slam | Năm | Kỷ lục | Người đồng giữ kỷ lục |
Úc Mở rộng Pháp Mở rộng Wimbledon Mỹ Mở rộng Thế Vận Hội olympics |
2009 2005 2008 2010 2008 |
Career Golden Slam | Andre Agassi |
Úc Mở rộng Pháp Mở rộng Wimbledon Mỹ Mở rộng |
2009 2005 2008 2010 |
Grand Slam sự nghiệp | Rod Laver Andre Agassi Roger Federer Novak Djokovic |
Úc Mở rộng – Pháp Mở rộng – Wimbledon – Mỹ Mở rộng | 2005–2010 | Ít nhất hai Grand Slam trên mặt sân đất nện, sân cỏ, và sân cứng | Mats Wilander |
Úc Mở rộng – Pháp Mở rộng – Wimbledon – Mỹ Mở rộng | 2005–2014 | Ít nhất một Grand Slam mỗi năm, trong 10 năm liên tiếp | |
Pháp Mở rộng – Wimbledon - Mỹ Mở rộng | 2010 | Vô địch Grand Slam trên cả ba mặt sân trong cùng một năm | |
Pháp Mở rộng – Wimbledon - Mỹ Mở rộng | 2010 | Vô địch 3 Grand Slam liên tục trong cùng một năm | Rod Laver |
Pháp Mở rộng – Mỹ Mở rộng | 2008–2010 | Cùng lúc giữ Grand Slam trên 3 mặt sân (ghi chú: 2 lần làm được điều này, Federer chỉ làm được 1 lần) | Roger Federer |
Thế vận hội – Mỹ Mở rộng | 2008–2010 | Cùng lúc giữ HCV Olympic và Grand Slam trên cả ba mặt sân | |
Thế vận hội – Mỹ Mở rộng | 2008–2010 | Cùng lúc giữ HCV Olympic và Wimbledon | |
Thế vận hội – pháp mở rộng | 2008–2010 | Cùng lúc giữ HCV Olympic và 3 Grand Slam (không cần biết trên mặt sân nào) | Andre Agassi |
Thế vận hội – Mỹ Mở rộng | 2008–2010 | Cùng lúc giữ HCV Olympic và Grand Slam trên mặt sân đất nện và sân cứng | Andre Agassi |
Thế vận hội – Mỹ Mở rộng | 2008–2010 | Cùng lúc giữ HCV Olympic và chức vô địch Mỹ Mở rộng | Andre Agassi |
Pháp Mở rộng | 2005-2019 | 12 chức vô địch | |
Pháp Mở rộng | 2005–2009
2009-2014 |
31 trận thắng liên tiếp
39 trận thắng liên tiếp |
|
Pháp Mở rộng—Wimbledon | 2008, 2010 | 1 "Channel Slam": Đoạt 2 Grand Slam này trong cùng năm | Rod Laver Bjorn Borg Roger Federer |
Pháp Mở rộng—Wimbledon | 2008, 2010 | Đoạt "Channel Slam" hơn 1 lần | Bjorn Borg |
Pháp Mở rộng—Wimbledon | 2013 | 1 "Channel Slam" | |
Pháp Mở rộng | 2005–2008; 2017-2020
2009 - 2014 |
4 chức vô địch Pháp Mở rộng liên tiếp
5 chức vô địch Pháp Mở rộng liên tiếp |
Björn Borg |
Pháp Mở rộng | 2005–2008
2009- 2014 |
4 trận chung kết Pháp Mở rộng liên tiếp
5 trận chung kết Pháp Mở rộng liên tiếp |
Björn Borg Ivan Lendl Roger Federer |
Pháp Mở rộng | 2008, 2010, 2017, 2020 | Số lần vô địch Pháp Mở rộng nhiều nhất mà không thua set nào (4) | |
Úc Mở rộng Pháp Mở rộng Wimbledon Mỹ Mở rộng |
2005–2020 | Vào chung kết cả bốn Grand Slam | Rod Laver Ken Rosewall Ivan Lendl Novak Djokovic |
Kỷ lục tại các giải Master
ATP Masters Series | Năm | Kỷ lục | Người đồng giữ kỷ lục |
ATP World Tour Masters 1000 | 2005–2019 | Sở hữu nhiều chức vô địch Master nhất (35) | |
Monte Carlo—Roma-Madrid-Roland Garros | 2010 | 1 "Clay Slam": 3 Master đất nện và Roland Garros | |
Monte Carlo | 2005–2012 | 8 danh hiệu liên tiếp ở Monte Carlo Masters | |
Rome Masters | 2005–2019 | 9 danh hiệu vô địch | |
ATP World Tour Masters 1000 | 2008–2010 | 21 lần liên tiếp vào tới tứ kết | |
ATP World Tour Masters 1000 | 2008 | 3 danh hiệu liên tiếp (bất kể mặt sân nào) | Roger Federer (2004) |
ATP World Tour Masters 1000 | 2005–2012 | Vô địch cùng một giải nhiều lần liên tục nhất – 8 | |
Monte Carlo Masters—Rome Masters | 2005–2007 2009–2010 2012 |
Nhiều năm vô địch cả hai giải này nhất – 7 | |
ATP World Tour Masters 1000 | 2007–2010 | Liên tục vô địch ít nhất 3 Master trong 1 năm – 4 | |
ATP World Tour Masters 1000 | 2004–2019 | 58 danh hiệu đất nện | |
Monte Carlo Masters | 2005–2018 | Vô địch nhiều lần nhất – 11 |
Cuộc đối đầu với Federer
Nadal và Federer đã chạm trán lần đầu tiên vào năm 2004, và các cuộc đối đầu giữa họ đã trở thành phần không thể thiếu trong sự nghiệp của cả hai.
- Đây là cặp đôi duy nhất trong Kỷ nguyên Mở rộng đã gặp nhau trong 9 trận chung kết Grand Slam, với Nadal giành chiến thắng 6 lần trong số đó. Trong 6 trận thắng của Nadal, có 4 trận diễn ra trên mặt sân đất nện yêu thích của anh (Pháp Mở rộng các năm 2006, 2007, 2008, 2011), hai trận còn lại là tại Wimbledon 2008 và Úc Mở rộng 2009. Federer chiến thắng tại Wimbledon 2006, 2007 và Úc Mở rộng 2017.
- Trận chung kết Wimbledon 2008 giữa họ được nhiều người xem là trận đấu xuất sắc nhất mọi thời đại.
- Nhiều nhà phân tích cho rằng cuộc đối đầu giữa Federer và Nadal là cuộc đối đầu vĩ đại nhất trong lịch sử quần vợt.
- Nadal và Federer đã đối đầu tổng cộng 40 lần, với tỷ số nghiêng nhẹ về Nadal 24-16. Nadal dẫn trước 14-2 trên mặt sân đất nện và 8-6 trên sân cứng ngoài trời. Federer dẫn 2-1 trên sân cỏ và 5-1 trên sân cứng trong nhà.
- Trận đấu gần đây nhất giữa hai tay vợt là bán kết Wimbledon 2019, nơi Federer giành chiến thắng sau 4 set.
- Nadal được xem là đối thủ khó chịu của Federer cũng như các tay vợt trái một tay khác, với cú thuận tay xoáy cao khiến Federer gặp khó khăn. Tuy nhiên, sau khi cải thiện cú trái, Federer đã thắng 5 trận liên tiếp trước Nadal và các cú topspin của Nadal không còn gây khó khăn cho Federer như trước.
Cuộc đối đầu với Djokovic
Nadal và Djokovic đã chạm trán 59 lần, đây là cuộc đối đầu nhiều nhất trong Kỷ nguyên Mở rộng với tỷ số gần như ngang bằng, Djokovic dẫn 30-29. Nadal và Djokovic hòa nhau 2-2 trên sân cỏ, Nadal dẫn 20-8 trên sân đất nện, trong khi Djokovic dẫn 20-7 trên sân cứng.
Djokovic là tay vợt duy nhất có hơn 20 chiến thắng trước Nadal và cũng là người duy nhất từng đánh bại Nadal 7 lần liên tiếp, bao gồm 2 lần liên tục trên mặt sân đất nện. Hai tay vợt này từng thiết lập kỷ lục trận đấu 3 set dài nhất tại Mutua Madrid Open 2009, kỷ lục này sau đó bị Federer và Del Potro phá tại Olympic London 2012.
Tại trận chung kết Wimbledon 2011, Djokovic đã đánh bại Nadal trong 4 set với các tỷ số 6-4, 6-1, 1-6, 6-3. Djokovic cũng đã vượt qua Nadal ở trận chung kết US Open 2011.
Năm 2012, Djokovic tiếp tục đánh bại Nadal tại chung kết Úc Mở rộng, lần thứ 3 đăng quang ở đây. Đây là trận chung kết Grand Slam dài nhất từ trước đến nay (5 giờ 53 phút). Sau đó, Nadal đã giành 2 danh hiệu Master 1000 tại Monte Carlo và Rome, đánh bại Djokovic ở cả hai trận chung kết và chiến thắng tại Pháp Mở rộng để có danh hiệu thứ 7 ở đây, đồng thời chấm dứt chuỗi 3 trận thua liên tiếp trước Djokovic ở các trận chung kết Grand Slam.
Năm 2013, Djokovic đã chấm dứt chuỗi 8 chức vô địch liên tiếp của Nadal tại Monte Carlo sau khi thắng 2 set. Tuy nhiên, Nadal đã trả đũa bằng chiến thắng 3-2 tại bán kết Pháp Mở rộng, trong đó set quyết định với tỷ số 9-7 nghiêng về Nadal. Nadal tiếp tục đánh bại Djokovic trên sân cứng tại bán kết Montreal và chung kết US Open. Sau khi thua Djokovic trong trận chung kết Pháp Mở rộng 2014, Nadal đã để thua 7 trận liên tiếp trước Djokovic, bao gồm trận tứ kết Pháp Mở rộng 2015 với tỷ số 3-0 (5-7, 3-6, 1-6), kết thúc chuỗi 39 trận thắng liên tiếp của Nadal tại Pháp Mở rộng. Nadal có chiến thắng đầu tiên trước Djokovic kể từ Pháp Mở rộng 2014 khi đánh bại Djokovic 6-4, 6-3 tại Madrid Open 2017, nhưng lại thua Djokovic tại bán kết Wimbledon 2018 với tỷ số 4-6, 6-3, 6-7, 6-3, 8-10. Tại bán kết Roland Garros 2021, Djokovic đã đánh bại Nadal sau 4 set với tỷ số 3-6, 6-3, 7-6, 6-2, một chiến thắng đầy ý nghĩa cho Djokovic sau thất bại trước Nadal trong trận chung kết năm trước và cũng giúp Djokovic trở thành tay vợt đầu tiên hai lần đánh bại Nadal tại Roland Garros.
Cuộc đối đầu với Murray
Nadal và Andy Murray đã đối đầu tổng cộng 24 lần từ năm 2007, với Nadal nhỉnh hơn với tỷ số 17-7. Nadal thắng 7-2 trên sân đất nện, 3-0 trên sân cỏ và 7-5 trên sân cứng. Trong 24 cuộc chạm trán, có 9 trận diễn ra tại các giải Grand Slam, trong đó Nadal thắng 7 trận (3-0 tại Wimbledon, 2-0 tại Pháp Mở rộng, 1-1 tại Úc Mở rộng và 1-1 tại Mỹ Mở rộng). Hầu hết các cuộc đối đầu ở Grand Slam đều diễn ra ở vòng tứ kết và bán kết. Tuy chưa từng gặp nhau ở chung kết Grand Slam, Murray lại dẫn 3-1 trong các trận chung kết ATP (Nadal thắng tại Indian Wells 2009, còn Murray thắng tại Rotterdam, Tokyo và Madrid). Murray thua liên tiếp 3 trận bán kết Grand Slam trước Nadal từ Pháp Mở rộng đến Mỹ Mở rộng. Thú vị là, trong 19 lần bốc thăm ở các giải Grand Slam, hai tay vợt này đã chung nhánh đấu tới 16 lần. Họ cũng không thể gặp nhau ở bán kết Miami Masters vì Nadal phải rút lui vì chấn thương.
Phong cách thi đấu
Nadal chủ yếu thi đấu từ sau vạch cuối sân, sử dụng nhiều cú topspin đều tay và di chuyển linh hoạt. Với thể lực mạnh mẽ và tốc độ nhanh, Nadal là tay vợt phòng thủ xuất sắc, có khả năng giành điểm từ các tình huống bị dồn ép. Dù thường đứng xa vạch cuối sân, Nadal cũng được đánh giá cao trong các tình huống lên lưới khi có cơ hội.
Cú thuận tay của Nadal rất đặc biệt so với các tay vợt khác. Tay trái của anh đánh bóng và vòng lên phía trên vai phải, thay vì ngang thân người như kiểu truyền thống. Cú thuận tay của Nadal giúp tạo ra topspin cực nặng với tốc độ xoáy cao, trung bình khoảng 3200 vòng/phút và có thể lên đến 4900 vòng/phút (so với Federer là khoảng 2700 vòng/phút, Sampras và Agassi khoảng 1800-1900 vòng/phút). Nadal thực hiện cú trái tay bằng hai tay.
Trước đây, giao bóng của Nadal thường được coi là điểm yếu, và anh hiếm khi có được các cú ace. Tuy nhiên, từ mùa giải 2010, Nadal đã cải thiện đáng kể kỹ thuật giao bóng của mình. Sự cải thiện này đã giúp anh nhiều trong giải Mỹ Mở rộng 2010. Hiện tại, tốc độ giao bóng tối đa của anh đạt khoảng 135 dặm/giờ (217 km/giờ), và anh đã ghi nhiều điểm hơn từ những cú giao bóng.
Một trong những điểm mạnh quan trọng của Nadal là tinh thần chiến đấu bền bỉ và khả năng chiến thuật sắc sảo. Anh có khả năng phớt lờ bất lợi về tỷ số hay sự cổ vũ của khán giả để tập trung hoàn toàn vào trận đấu. Dù thường ăn mừng nồng nhiệt sau mỗi điểm số, Nadal vẫn giữ được sự bình tĩnh trong những tình huống khó khăn. Hiếm khi thấy anh nổi nóng trên sân, và anh cũng rất linh hoạt trong việc điều chỉnh chiến thuật theo điều kiện thời tiết, mặt sân hay chiến lược của đối thủ.
Dù từng bị xem là tay vợt chỉ mạnh trên sân đất nện, Nadal gần đây đã chứng tỏ rằng anh chơi xuất sắc trên các mặt sân khác. Anh đã giành được 8 Grand Slam trên các mặt sân khác cùng nhiều danh hiệu lớn nhỏ. Tuy vậy, bên cạnh những lời khen ngợi, vẫn có nhiều chuyên gia lo ngại về khả năng duy trì phong độ lâu dài của anh, cho rằng lối chơi của Nadal có thể dễ dẫn đến chấn thương. Anh thường bị đánh giá thấp hơn Novak Djokovic về sự toàn diện và trái ngược với lối chơi tinh tế của Roger Federer.
Cuộc sống ngoài sân đấu
Mặc dù không phải là cầu thủ chuyên nghiệp, Nadal rất đam mê bóng đá và tham gia tích cực vào các hoạt động liên quan. Anh là một fan hâm mộ nhiệt thành của CLB Real Madrid và đội tuyển Tây Ban Nha. Vào đầu năm 2011, Nadal được vinh danh là thành viên danh dự của Real Madrid, cùng với những tên tuổi lừng lẫy như Alfredo Di Stefano, Sepp Blatter và Vicente del Bosque. Khi Tây Ban Nha vô địch World Cup 2010, Nadal là một trong số ít người ngoài được vào phòng thay đồ để ăn mừng cùng đội tuyển (cùng với hai phóng viên, hoàng hậu Tây Ban Nha, thái tử Tây Ban Nha và vợ). Ngày 7 tháng 8 năm 2010, Nadal đã trở thành cổ đông của CLB quê nhà RCD Mallorca để giúp đội bóng thoát khỏi nợ nần, nắm giữ 10% cổ phần cho đến khi bán lại vào cuối năm 2011.
Hiện tại, Nadal là gương mặt đại diện cho các sản phẩm đồ lót và quần jeans của hãng Armani. Anh cũng có hợp đồng tài trợ với Nike và Richard Mille, với chiếc đồng hồ trị giá 525,000 đôla từ hãng Richard Mille mà anh thường đeo khi thi đấu.
Vào tháng 2 năm 2010, Nadal xuất hiện trong video âm nhạc 'Gypsy' của Shakira. Ngoài ra, tên của anh còn được đặt cho thiên thạch 128036 Rafaelnadal.
Rafa Nadal Foundation là tổ chức từ thiện do Nadal sáng lập. Anh đã từng chia sẻ rằng sau khi giải nghệ, anh sẽ tập trung hoàn toàn vào việc điều hành tổ chức này.
Vào ngày 19 tháng 10 năm 2016, Nadal đã khánh thành Rafa Nadal Academy tại quê hương Mallorca. Học viện này hiện do chú của Nadal, Toni Nadal, quản lý sau khi cả hai tách rời nhau vào cuối mùa giải 2017.
Chú thích
Thành tích | ||
---|---|---|
Tiền nhiệm: Roger Federer |
Tay vợt số 1 thế giới 18 tháng 8 năm 2008 - 5 tháng 7 năm 2009 |
Kế nhiệm: Roger Federer |
Giải thưởng | ||
Tiền nhiệm: Paul-Henri Mathieu |
Tay vợt trẻ xuất sắc trong năm của ATP 2003 |
Kế nhiệm: Florian Mayer |
Tiền nhiệm: Joachim Johansson |
Tay vợt tiến bộ nhất trong năm của ATP 2005 |
Kế nhiệm: Novak Djokovic |
Tiền nhiệm: Liu Xiang |
Giải thưởng Laureus dành cho vận động viên mới đến 2006 |
Kế nhiệm: Amélie Mauresmo |
Bảng xếp hạng thế giới – 10 vận động viên quần vợt hàng đầu tính đến ngày 8 tháng 11 năm 2021 |
---|
Các nhà vô địch đơn nam Thế vận hội môn quần vợt |
---|
Các nhà vô địch nội dung đơn nam Úc Mở rộng |
---|
Các nhà vô địch nội dung đơn nam Pháp Mở rộng |
---|
Các nhà vô địch đơn nam Wimbledon |
---|
Các nhà vô địch đơn nam Mỹ Mở rộng |
---|
Tay vợt số 1 thế giới |
---|
Hiệp hội quần vợt nhà nghề: Top mười tay vợt đơn nam Châu Âu vào ngày 13 tháng 5 năm 2019 |
---|
Hiệp hội quần vợt nhà nghề: Top mười tay vợt đơn nam Tây Ban Nha vào ngày 4 tháng 2 năm 2019 |
---|
Hiệp hội quần vợt nhà nghề: Top mười tay vợt đôi nam Tây Ban Nha vào ngày 4 tháng 2 năm 2019 |
---|