Chi Rắn hổ mang | |
---|---|
Rắn hổ mang Ấn Độ (Naja naja). | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Reptilia |
Bộ (ordo) | Squamata |
Phân bộ (subordo) | Serpentes |
Họ (familia) | Elapidae |
Chi (genus) | Naja Laurenti, 1768 |
Loài điển hình | |
Naja lutescens Laurenti, 1768 | |
Các loài | |
32. Xem bài. | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Naia Merrem, 1820 |
Chi Rắn hổ mang (danh pháp khoa học: Naja) là một chi rắn độc thuộc họ Elapidae, thường được gọi là rắn hổ mang. Các loài thuộc chi này phân bố rộng rãi từ châu Phi đến Tây Nam Á, Nam Á và Đông Nam Á.
Chi Naja hiện bao gồm 20 - 22 loài, nhưng do những thay đổi phân loại gần đây, số lượng loài có thể thay đổi trong các tài liệu khác nhau. Sự sửa đổi năm 2009 đã hợp nhất các chi Boulengerina và Paranaja vào Naja, dẫn đến việc chi này hiện tại có khoảng 32 loài.
Ý Nghĩa Từ Nguyên
Tên khoa học của chi này bắt nguồn từ tiếng Phạn nāga (với 'g' cứng), có nghĩa là 'rắn'. Một số người cho rằng từ này liên quan đến từ tiếng Anh 'snake', tiếng Đức: *snēk-a-, và Tiền-IE: *(s)nēg-o-, nhưng quan điểm này không chính xác. Mayrhofer coi từ nguyên này là 'unglaubhaft', tức 'không đáng tin cậy', và đề xuất rằng từ này có thể bắt nguồn từ tiếng Phạn nagna, có nghĩa là 'trần trụi'.
Mô Tả
Các loài rắn trong chi Naja thường có thân hình thanh mảnh, với chiều dài có thể dao động lớn. Hầu hết các loài có thể dài đến 1,84 m (6,0 ft), và một số loài lớn nhất như rắn hổ mang rừng (Naja melanoleuca) ở châu Phi có thể đạt chiều dài lên tới 3,1 m (10 ft). Tất cả các loài đều có khả năng đặc biệt là nâng phần thân trước và phình cổ để tạo vẻ lớn hơn khi đối diện với kẻ thù.
Phân Loại
Hai nghiên cứu phát sinh chủng loài gần đây đã ủng hộ việc sáp nhập các loài trước đây thuộc các chi Boulengerina và Paranaja vào chi Naja, vì chúng đều có mối quan hệ gần gũi với rắn hổ mang rừng (Naja melanoleuca).
Wallach và cộng sự đề xuất việc chia chi Naja thành 4 phân chi, bao gồm Naja cho các loài rắn hổ mang châu Á, Boulengerina cho rắn hổ mang rừng, nước và đào bới châu Phi, Uraeus cho rắn hổ mang Ai Cập và Cape, và Afronaja cho các loài rắn hổ mang châu Phi.
Phát Sinh Chủng Loài
Dưới đây là cây phát sinh chủng loài theo Wallach và cộng sự (2009).
Naja |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Các Loài Rắn Hổ Mang
Loài | Tác giả | Phân loài* | Tên thường gọi | Phân bố |
---|---|---|---|---|
N. anchietae | Bocage, 1879 | 0 | Rắn hổ mang Anchieta, rắn hổ mang Angola | Angola, Botswana, Namibia, Zambia, đông Zimbabwe. |
N. annulata | (Buchholz & Peters, 1876) | 1 | Rắn hổ mang nước sọc | Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Congo, Cộng hòa Congo, Guinea Xích đạo, Gabon, Rwanda, tỉnh Cabinda (Angola). |
N. annulifera | Peters, 1854 | 0 | Botswana, Malawi, Mozambique, Nam Phi, Swaziland, Zambia, Zimbabwe. | |
†N. antiqua | Rage, 1976 | 0 | Rắn hổ mang Morocco | Địa tầng thế Miocen ở Morocco. |
N. arabica | Scortecci, 1932 | 0 | Rắn hổ mang Ả Rập | Oman, Saudi Arabia, Yemen. |
N. ashei | Wüster & Broadley, 2007 | 0 | Rắn hổ phì lớn | Nam Ethiopia, Kenya, Somalia, đông Uganda. |
N. atra | Cantor, 1842 | 0 | Rắn hổ mang Trung Quốc, rắn hổ mang thường | Nam Trung Quốc, bắc Lào, Đài Loan, bắc Việt Nam. |
N. christyi | (Boulenger, 1904) | 0 | Rắn hổ mang nước Congo | Cộng hòa Dân chủ Congo, Cộng hòa Congo, tỉnh Cabinda (Angola). |
N. guineensis | Broadley, Trape, Chirio, Ineich &Wüster, 2018 | 0 | Rắn hổ mang rừng đen | Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Bờ Biển Ngà, Liberia, Sierra Leone, Togo. |
N. haje | Linnaeus, 1758 | 0 | Rắn hổ mang Ai Cập | Tanzania, Kenya, Somalia, Ethiopia, Uganda, Nam Sudan, Sudan, Cameroon, Nigeria, Niger, Burkina Faso, Mali, Senegal, Mauritania, Morocco, Algeria, Tunisia, Libya và Ai Cập. |
†N. iberica | Szyndlar, 1985 | Rắn hổ mang Tây Ban Nha | Địa tầng thế Miocen ở Tây Ban Nha. | |
N. kaouthia | Lesson, 1831 | 0 | Rắn hổ đất, rắn hổ mang một mắt kính | Bangladesh, Bhutan, Burma, Campuchia, nam Trung Quốc, đông Ấn Độ, Lào, tây bắc Malaysia, Nepal, Thái Lan, đông nam Tây Tạng, Việt Nam. |
N. katiensis | Angel, 1922 | 0 | Rắn hổ mang Mali cobra (Rắn hổ phì Kati, rắn hổ phì Tây Phi, rắn hổ phì nâu miền tây) | Benin, Burkina Faso, Cameroon, Ghana, Guinea, Ivory Coast, Mali, Gambia, Mauritania, Niger, Nigeria, Senegal, Togo |
N. mandalayensis | Slowinski & Wüster, 2000 | 0 | Rắn hổ phì Mandalay (rắn hổ phì Myanmar) | Myanmar |
N. melanoleuca | Hallowell, 1857 | 0 | Rắn hổ mang rừng Trung Phi | Angola, Benin, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guinea Xích đạo, Gabon, Nigeria. |
N. mossambica | Peters, 1854 | 0 | Rắn hổ phì Mozambique | Viễn đông nam Angola, Botswana, Malawi, Mozambique, Somalia, đông bắc Namibia, Nam Phi, Swaziland, Tanzania (cả đảo Pemba), Zambia, Zimbabwe. |
N. multifasciata | Werner, 1902 | 0 | Rắn nhiều sọc | Cameroon, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Gabon. |
N. naja | (Linnaeus, 1758) | 0 | Rắn hổ mang Ấn Độ | Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Nepal, Pakistan, Sri Lanka. |
N. nigricincta | Bogert, 1940 | 1 | Rắn hổ phì vằn | Angola, Namibia, Nam Phi. |
N. nigricollis | Reinhardt, 1843 | 0 | Rắn hổ phì cổ đen | Angola, Benin, Burkina Faso, Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Cộng hòa Dân chủ Congo (trừ trung tâm), Cộng hòa Congo, Ethiopia, Gabon, Gambia, Ghana, Guinea Bissau, Guinea, Bờ Biển Ngà, Kenya, Liberia, Mali, Mauritania, Namibia, Niger, Nigeria, Rwanda, Senegal, Sierra Leone, Sudan, Tanzania, Somalia, Togo, Uganda, Zambia. |
N. nivea | (Linnaeus, 1758) | 0 | Rắn hổ mang Cape (rắn hổ mang vàng) | Botswana, Lesotho, Namibia, Nam Phi. |
N. nubiae | Wüster & Broadley, 2003 | 0 | Rắn hổ phì Nubia | Chad, Ai Cập, Eritrea, Niger, Sudan. |
N. oxiana | (Eichwald, 1831) | 0 | Rắn hổ mang Caspi | Afghanistan, tây bắc Ấn Độ, Iran, Kyrgyzstan, Pakistan, Tajikistan, Turkmenistan, Uzbekistan. |
N. pallida | Boulenger, 1896 | 0 | Rắn hổ phì đỏ | Djibouti, Ethiopia, Kenya, Somalia, Tanzania. |
N. peroescobari | Ceríaco, Marques, Schmitz & Bauer, 2017 | 0 | Rắn hổ mang rừng São Tomé | São Tomé & Príncipe (São Tomé). |
N. philippinensis | Taylor, 1922 | 0 | Rắn hổ mang Philippines | Philippines (Luzon, Mindoro). |
†N. romani | Hofstetter, 1939 | 0 | †Rắn hổ mang châu Âu | Địa tầng thế Miocen ở Pháp, Đức, Áo, Romania và Ukraina. |
N. sagittifera | Wall, 1913 | 0 | Rắn hổ mang Andaman | Ấn Độ (quần đảo Andaman) |
N. samarensis | Peters, 1861 | 0 | Rắn hổ mang Samar | Philippines (Mindanao, Bohol, Leyte, Samar, Camiguin). |
N. savannula | Broadley, Trape, Chirio & Wüster, 2018 | 0 | Rắn hổ mang sọc Tây Phi | Benin, Burkina Faso, Cameroon, Chad, Gambia, Ghana, Guinea, Bờ Biển Ngà, Mali, Niger, Nigeria, Senegal, Togo. |
N. senegalensis | Trape, Chirio & Wüster, 2009 | 0 | Rắn hổ mang Senegal | Benin, Burkina Faso, Ghana, Guinea, Mali, Niger, Nigeria, Senegal. |
N. siamensis | Laurenti, 1768 | 0 | Rắn hổ mang phun nọc Đông Dương, rắn hổ mang Xiêm, rắn hổ mèo | Campuchia, Lào, Thái Lan, nam Việt Nam. |
N. sputatrix | F. Boie, 1827 | 0 | Rắn hổ phì Java | Indonesia (Java, quần đảo Sunda Nhỏ, Đông Timor). |
N. subfulva | Laurent, 1955 | 0 | Rắn hổ mang rừng nâu | Angola, Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ethiopia, Kenya, Malawi, Mozambique, Nigeria, Rwanda, Somalia, Nam Phi, Nam Sudan, Tanzania, Uganda, Zambia, Zimbabwe. |
N. sumatrana | Müller, 1887 | 0 | Rắn hổ phì xích đạo | Brunei, Indonesia (Sumatra, Borneo, Bangka, Belitung), Malaysia, Philippines (Palawan), nam Thái Lan, Singapore. |
* Không bao gồm các phân loài nguyên chủng.
Đã tuyệt chủng.
Loài điển hình.
Nọc độc
STT | Loài | LD50 SC |
---|---|---|
1 | N. oxiana | 0,10 mg/kg |
2 | N. philippinensis | 0,14 mg/kg |
3 | N. samarensis | 0,21 mg/kg |
4 | N. melanoleuca | 0,225 mg/kg |
5 | N. siamensis | 0,25 mg/kg |
6 | N. atra | 0,28 mg/kg |
7 | N. naja | 0,29 mg/kg |
8 | N. nivea | 0,37 mg/kg |
9 | N. kaouthia | 0,47 mg/kg |
10 | N. sumatrana | 0,60 mg/kg |
Các loài trong chi Naja đều sở hữu nọc độc mạnh mẽ có thể gây chết người. Hầu hết các loài chứa độc tố neurotoxin tấn công hệ thần kinh, gây liệt cơ, nhưng cũng có thể có độc tố tế bào gây sưng tấy và hoại tử, cùng với tác động chống đông máu mạnh mẽ. Một số loài còn chứa các thành phần độc tố tác động đến tim mạch.
Một số loài trong chi Naja, đặc biệt là rắn hổ mang phì, có cơ chế phun nọc độc độc đáo, nơi các răng nọc ở phía trước có khe rãnh cho phép phun nọc ra ngoài miệng thay vì tiêm như kim tiêm. Dù được gọi là 'phun phì phì', thực chất đây là hành động phun nọc. Khoảng cách và độ chính xác của việc phun nọc thay đổi giữa các loài, và nó được sử dụng để tự vệ. Nếu nọc độc tiếp xúc với da, nó có thể gây kích thích mãnh liệt và nếu dính vào mắt có thể gây mù tạm thời hoặc vĩnh viễn nếu không được xử lý kịp thời.
Rắn hổ mang Caspi (N. oxiana) ở Trung Á được biết đến là loài rắn hổ mang có nọc độc mạnh nhất. Liều LD50 dưới da của N. oxiana ở chuột nhắt là 0,18 mg/kg, với giá trị thấp nhất được ghi nhận là 0,10 mg/kg. Trong khi đó, N. philippinensis có LD50 dưới da là 0,2 mg/kg, với giá trị thấp nhất là 0,14 mg/kg. LD50 tiêm ven của rắn hổ mang Caspi là 0,037 mg/kg và của rắn hổ mang Philippine là 0,05 mg/kg. Rắn hổ mang Caspi sở hữu nọc độc mạnh nhất trong các loài rắn hổ mang trên thế giới, với liều gây tử vong thấp nhất được ghi nhận là 0,005 mg/kg. Sau rắn hổ mang Caspi và Philippine, rắn hổ mang rừng (N. melanoleuca) có LD50 dưới da là 0,225 mg/kg và rắn hổ mang Samar (N. samarensis) có LD50 là 0,23 mg/kg dưới da. Các loài rắn hổ mang nước ở Trung Phi cũng có nọc độc rất mạnh, với LD50 liên màng bụng của nọc từ Naja annulata và Naja christyi lần lượt là 0,143 mg/kg và 0,120 mg/kg.
Các loài trong chi Naja không chỉ quan trọng về mặt sinh học mà còn có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng vì số lượng vết cắn và ca tử vong gây ra trong khu vực phân bố của chúng. Chúng xuất hiện rộng rãi ở châu Phi (bao gồm cả các khu vực sa mạc Sahara nơi Naja haje có mặt), Tây Nam Á, Trung Á, Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á. Khoảng 30–40% vết cắn từ các loài rắn hổ mang là các vết cắn khô, tức là không có nọc độc.
Nhiều yếu tố có thể giải thích sự khác biệt về tỷ lệ tử vong giữa các loài trong cùng một chi rắn hổ mang. Ví dụ, tỷ lệ tử vong do vết cắn của các loài rắn hổ mang có thể rất khác nhau, với tỷ lệ từ 6,5–10% ở N. kaouthia đến 70% ở N. oxiana. Tỷ lệ tử vong cho các loài khác như Naja atra là 15-20%, N. nigricollis là 5–10%, N. nivea là 50%, N. melanoleuca là 65–70%, N. naja là 20–25% và N. samarensis là 50–60%.
Khi nạn nhân của rắn hổ mang được điều trị y tế theo phương pháp tiêu chuẩn, sự khác biệt về tiên lượng chủ yếu phụ thuộc vào loài rắn hổ mang gây ra vết cắn. Hầu hết bệnh nhân bị cắn và được điều trị kịp thời sẽ hồi phục, nhưng cũng có những trường hợp vẫn tử vong. Tình trạng nghiêm trọng của vết cắn và loài rắn là những yếu tố quan trọng quyết định kết quả điều trị. Rắn hổ mang Caspi (N. oxiana) và rắn hổ mang Philippine (N. philippinensis) được biết đến với nọc độc mạnh nhất, có thể gây ngộ độc thần kinh nghiêm trọng và các triệu chứng đe dọa tính mạng. Nọc của N. philippinensis gây ra ngộ độc thần kinh với tổn thương tối thiểu và phản ứng tốt với điều trị kháng nọc nếu thực hiện sớm. Ngược lại, nọc của N. oxiana gây ra ngộ độc thần kinh, tổn thương mô, sưng tấy và độc tính tim mạch. Tỷ lệ tử vong không điều trị ở các ca bị N. oxiana tiết nọc có thể lên đến 80%, và kháng nọc hiệu quả thấp hơn so với các loài rắn hổ mang khác. Viện Nghiên cứu Vaccin và Huyết thanh Razi đã phát triển một loại kháng nọc đơn trị, nhưng tỷ lệ phản ứng điều trị kém và cần can thiệp y tế phức tạp.