Quaresma thi đấu trong màu áo đội tuyển Bồ Đào Nha tại FIFA World Cup 2018 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Ricardo Andrade Quaresma Bernardo | ||
Ngày sinh | 26 tháng 9, 1983 (40 tuổi) | ||
Nơi sinh | Lisbon, Bồ Đào Nha | ||
Chiều cao | 1,75 m (5 ft 9 in) | ||
Vị trí | Tiền vệ cánh | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1991–1993 | Domingos Sávio | ||
1994–2000 | Sporting CP | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2000–2001 | Sporting B | 16 | (0) |
2001–2003 | Sporting CP | 59 | (8) |
2003–2004 | Barcelona | 22 | (1) |
2004–2008 | Porto | 114 | (24) |
2008–2010 | Inter Milan | 24 | (1) |
2009 | → Chelsea (mượn) | 4 | (0) |
2010–2012 | Beşiktaş | 46 | (8) |
2013 | Al-Ahli | 10 | (2) |
2014–2015 | Porto | 42 | (10) |
2015–2019 | Beşiktaş | 107 | (13) |
2019–2020 | Kasımpaşa | 26 | (4) |
2020–2022 | Vitória | 51 | (6) |
Tổng cộng | 522 | (77) | |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1999 | U-15 Bồ Đào Nha | 3 | (0) |
2000 | U-16 Bồ Đào Nha | 12 | (2) |
2000 | U-17 Bồ Đào Nha | 7 | (2) |
2001–2002 | U-19 Bồ Đào Nha | 4 | (0) |
2002–2006 | U-21 Bồ Đào Nha | 28 | (6) |
2002–2006 | Bồ Đào Nha B | 4 | (0) |
2003–2018 | Bồ Đào Nha | 80 | (10) |
Thành tích huy chương | |||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Ricardo Andrade Quaresma Bernardo (sinh ngày 26 tháng 9 năm 1983) là một cựu cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha đã thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh chuyên nghiệp.
Quaresma đã phát triển sự nghiệp từ lò đào tạo của Sporting CP và nhanh chóng nổi bật, góp công lớn vào việc đội U17 Bồ Đào Nha giành chức vô địch giải U17 châu Âu năm 2000. Anh đã chơi cho các CLB như Barcelona, Inter Milan, Chelsea, Beşiktaş và Al-Ahli, nhưng những năm tháng đáng nhớ nhất trong sự nghiệp của anh là ở Porto. Anh nổi tiếng với việc kết hợp các kỹ thuật đặc biệt vào lối chơi của mình, bao gồm rabona và trivela.
Với tư cách là tuyển thủ quốc gia Bồ Đào Nha trong suốt 15 năm, Quaresma đã có 80 lần ra sân và tham gia ba kỳ UEFA Euro, trong đó có chức vô địch UEFA Euro 2016, cùng với việc thi đấu tại FIFA World Cup 2018.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Thời kỳ
Năm 2001, Ricardo Quaresma được đưa lên đội hình chính và nhanh chóng trở thành một trụ cột quan trọng, giúp đội bóng giành cú đúp danh hiệu quốc nội trong mùa giải 2001-2002. Vào thời điểm đó, Quaresma là một trong những tài năng trẻ sáng giá nhất trên thế giới và Barcelona đã chi khoảng 6 triệu euro để đưa anh về sân Camp Nou.
FC Barcelona
Năm 2003, Quaresma gia nhập Barcelona, nhưng những chấn thương và mâu thuẫn với huấn luyện viên Frank Rijkaard đã khiến anh phải rời đội chỉ sau một mùa giải, trở lại Bồ Đào Nha để khoác áo FC Porto.
FC Porto
Mặc dù không thành công tại Tây Ban Nha, Quaresma lại tìm thấy sự cảm hứng khi khoác áo Porto. Trong trận tranh siêu cúp châu Âu năm 2004 với Valencia, Quaresma đã thể hiện sự tỏa sáng với cú sút xa mạnh mẽ, tuy nhiên Porto vẫn thua với tỷ số 1-2. Cùng năm đó, anh đã ghi bàn duy nhất trong trận tranh siêu cúp Bồ Đào Nha với Benfica, mang về danh hiệu đầu tiên cho đội bóng.
Quaresma chính là động lực chính đưa Porto đến những thành công rực rỡ trong giai đoạn đó. Với lối chơi ma thuật và những đóng góp đáng kể, anh được người hâm mộ vinh danh bằng các bảng hiệu trên khán đài. Thời gian tại Porto đã giúp Quaresma trở lại với ánh sáng của một ngôi sao sáng giá.
Inter Milan
Năm 2008, với sự ấn tượng của Ricardo Quaresma, huấn luyện viên José Mourinho đã phải nỗ lực để đưa anh về Inter Milan. Cuộc chuyển nhượng này đã thu hút sự chú ý của báo chí, nhưng sau những trận đấu đầu tiên, các chấn thương và phong độ giảm sút đã làm giảm đi sự kỳ diệu của Quaresma, khiến anh không còn là ngôi sao tỏa sáng như trước. Nhiều người cho rằng Mourinho đã làm mất đi một ngôi sao.
Được cho mượn tại Chelsea với hy vọng tìm lại phong độ, Quaresma vẫn không thể khôi phục lại sự vinh quang. Sau đó, anh phải rời đi và chia sẻ rằng việc gia nhập Inter Milan là quyết định sai lầm lớn nhất trong sự nghiệp của mình. Lối chơi khô cứng của Inter đã quá gò bó đối với Quaresma, và sau khi rời Inter vào năm 2010, anh đã chuyển sang chơi bóng tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Beşiktaş J.K.
Khi gia nhập Beşiktaş, Quaresma đã có một mùa giải đầu tiên thành công, giúp đội bóng giành cúp quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. Mùa giải tiếp theo, mặc dù anh vẫn thi đấu tốt, nhưng mâu thuẫn với huấn luyện viên Carlos Carvalhal đã dẫn đến việc hợp đồng của anh bị chấm dứt sớm vào năm 2012.
Al Ahli
Sau khi rời Beşiktaş, Quaresma chuyển đến Dubai vào đầu năm 2013 để chơi cho Al Ahli. Tuy nhiên, anh chỉ thi đấu 10 trận và ghi 2 bàn thắng trước khi câu lạc bộ quyết định chấm dứt hợp đồng sớm vì lý do tương tự như ở Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó, anh rơi vào tình trạng thất nghiệp suốt nửa cuối năm 2013.
Trở lại Porto
Vào tháng 1 năm 2014, Ricardo Quaresma chính thức trở lại Porto sau một thời gian dài vắng mặt. Lần trở lại này, Quaresma không còn là hình ảnh hào hoa, lãng tử như trước, mà thay vào đó là một người đàn ông phong trần với những hình xăm trên cơ thể. Tuy vậy, anh vẫn được các cổ động viên đón nhận nồng nhiệt và tình cảm của người hâm mộ dành cho anh vẫn rất sâu sắc. Anh được trao lại chiếc áo số 7 quen thuộc và bất ngờ lấy lại phong độ với lối chơi ma thuật đặc trưng của mình, khiến người hâm mộ không khỏi si mê.
Trở lại Beşiktaş
Mùa hè năm 2015, Quaresma quay lại Beşiktaş với một hợp đồng mới kéo dài 2 năm. Anh đã góp công lớn giúp đội bóng giành chức vô địch Thổ Nhĩ Kỳ lần đầu tiên sau 8 năm. Vào đầu năm 2017, anh tiếp tục gia hạn hợp đồng với câu lạc bộ cho đến hết mùa giải 2019-2020.
Đội tuyển quốc gia Bồ Đào Nha
Trong màu áo đội tuyển quốc gia, Quaresma đã tham dự hai kỳ Euro vào các năm 2008 và 2012, tuy nhiên không để lại nhiều dấu ấn nổi bật. Một trong những khoảnh khắc đáng nhớ nhất của anh là bàn thắng đẹp mắt bằng cú vẩy má ngoài vào lưới đội tuyển Bỉ ở vòng loại Euro 2007, bàn thắng này đã lọt vào danh sách Top 10 cú vẩy má ngoài ấn tượng nhất trong lịch sử bóng đá thế giới.
Năm 2016, Ricardo Quaresma góp mặt cùng đội tuyển Bồ Đào Nha tại vòng chung kết Euro tổ chức ở Pháp. Ở vòng 16 đội, anh đã ghi bàn thắng duy nhất vào phút 117 của hiệp phụ thứ 2, giúp Bồ Đào Nha vượt qua Croatia để tiến vào tứ kết. Trong trận chung kết gặp Pháp, anh vào sân thay thế Cristiano Ronaldo bị chấn thương ở phút 25 của hiệp 1. Kết hợp cùng Nani trên hàng công, Quaresma chứng kiến đội nhà đánh bại Pháp với tỷ số 1-0 nhờ bàn thắng quyết định của Éder ở hiệp phụ thứ 2, mang về chức vô địch Euro đầu tiên cho Bồ Đào Nha.
Tại World Cup 2018, Quaresma chỉ ghi được một bàn thắng trong trận hòa 1-1 với Iran. Tuy nhiên, đội tuyển Bồ Đào Nha đã bị loại ở vòng 16 đội sau thất bại 1-2 trước Uruguay.
Kỹ năng
Ricardo Quaresma được xem là một trong những ngôi sao sở hữu kỹ năng nổi bật nhất trong làng bóng đá hiện nay. Anh luôn làm người hâm mộ phải trầm trồ với những kỹ thuật độc đáo, đặc biệt là hai tuyệt chiêu ấn tượng nhất của anh là Trivela và Rabona.
Kỹ thuật Trivela, một kỹ thuật khó thực hiện, đòi hỏi việc sử dụng má ngoài của chân để điều khiển bóng. Quaresma đã nâng kỹ thuật này lên một tầm cao mới với những pha đi bóng, chuyền bóng và ghi bàn xuất sắc. Không ít lần anh đã ghi bàn và kiến tạo bằng kỹ thuật này, mang đến những bàn thắng đẹp mắt mà rất ít cầu thủ trên thế giới có thể đạt được. Khi nhắc đến Trivela, người ta không thể không nghĩ đến Quaresma.
Rabona, hay còn gọi là vắt bóng chéo chân, là một kỹ thuật khó thực hiện, yêu cầu người thực hiện phải có sự ổn định của chân trụ để tránh chấn thương. Kỹ thuật này đã trở nên phổ biến từ thời Ronaldinho và Ronaldo de Lima, và hiện tại nhiều ngôi sao hàng đầu như Cristiano Ronaldo, Eden Hazard, và Ángel Di María cũng thường xuyên sử dụng. Tuy nhiên, các cầu thủ này chỉ thực hiện Rabona khi có cảm hứng, còn với Quaresma, đây gần như là một kỹ năng riêng biệt của anh. Anh sử dụng kỹ thuật này một cách thường xuyên và đạt đến đỉnh cao của nó.
Bàn thắng quốc tế
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 24 tháng 3 năm 2007 | Sân vận động José Alvalade, Lisbon, Bồ Đào Nha | Bỉ | 3–0 | 4–0 | Vòng loại Euro 2008 |
2. | 6 tháng 2 năm 2008 | Letzigrund, Zurich, Thụy Sĩ | Ý | 1–2 | 1–3 | Giao hữu |
3. | 11 tháng 6 năm 2008 | Sân vận động Genève, Genève, Thụy Sĩ | Cộng hòa Séc | 3–1 | 3–1 | Euro 2008 |
4. | 11 tháng 10 năm 2014 | Stade de France, Paris, Pháp | Pháp | 2–1 | 2–1 | Giao hữu |
5. | 29 tháng 5 năm 2016 | Sân vận động Dragão, Porto, Bồ Đào Nha | Na Uy | 1–0 | 3–0 | Giao hữu |
6. | 8 tháng 6 năm 2016 | Sân vận động Ánh sáng, Lisbon, Bồ Đào Nha | Estonia | 2–0 | 7–0 | Giao hữu |
7. | 6–0 | |||||
8. | 25 tháng 6 năm 2016 | Sân vận động Bollaert-Delelis, Lens, Pháp | Croatia | 1–0 | 1–0 | Euro 2016 |
9. | 18 tháng 6 năm 2017 | Kazan Arena, Kazan, Nga | México | 1–0 | 2–2 | Confed Cup 2017 |
10. | 25 tháng 6 năm 2018 | Mordovia Arena, Saransk, Nga | Iran | 1–1 | 1–1 | World Cup 2018 |
Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ
Tính đến ngày 11 tháng 5 năm 2018
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Siêu cúp | Châu lục | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Sporting CP | 2001–02 | 28 | 3 | 6 | 2 | – | 2 | 0 | 36 | 5 | |||
2002–03 | 31 | 5 | 2 | 0 | – | 1 | 0 | 4 | 0 | 38 | 5 | ||
Tổng cộng | 59 | 8 | 8 | 2 | – | 1 | 0 | 6 | 0 | 74 | 10 | ||
Barcelona | 2003–04 | 22 | 1 | 2 | 0 | – | 4 | 0 | 28 | 1 | |||
Tổng cộng | 22 | 1 | 2 | 0 | – | 4 | 0 | 28 | 1 | ||||
Porto | 2004–05 | 32 | 5 | 1 | 0 | – | 1 | 1 | 8 | 0 | 42 | 6 | |
2005–06 | 29 | 5 | 4 | 0 | – | 6 | 0 | 39 | 5 | ||||
2006–07 | 26 | 6 | 1 | 0 | – | 1 | 0 | 8 | 2 | 36 | 8 | ||
2007–08 | 27 | 8 | 3 | 1 | – | 1 | 0 | 8 | 2 | 39 | 11 | ||
Tổng cộng | 114 | 24 | 9 | 1 | – | 3 | 1 | 30 | 4 | 156 | 30 | ||
Internazionale | 2008–09 | 13 | 1 | 0 | 0 | – | 6 | 0 | 19 | 1 | |||
2009–10 | 11 | 0 | 0 | 0 | – | 2 | 0 | 13 | 0 | ||||
Tổng cộng | 24 | 1 | 0 | 0 | – | 8 | 0 | 32 | 1 | ||||
Chelsea (mượn) | 2008–09 | 4 | 0 | 1 | 0 | – | 5 | 0 | |||||
Tổng cộng | 4 | 0 | 1 | 0 | – | 5 | 0 | ||||||
Beşiktaş | 2010–11 | 21 | 3 | 8 | 3 | – | 10 | 5 | 39 | 11 | |||
2011–12 | 25 | 5 | 1 | 0 | – | 8 | 2 | 34 | 7 | ||||
Tổng cộng | 46 | 8 | 9 | 3 | – | 18 | 7 | 73 | 18 | ||||
Al Ahli | 2012–13 | 10 | 2 | 1 | 1 | – | 11 | 3 | |||||
Tổng cộng | 10 | 2 | 1 | 1 | – | 11 | 3 | ||||||
Porto | 2013–14 | 12 | 4 | 3 | 1 | 3 | 1 | – | 6 | 4 | 24 | 10 | |
2014–15 | 30 | 6 | 0 | 0 | 3 | 1 | – | 10 | 3 | 38 | 10 | ||
Tổng cộng | 42 | 10 | 3 | 1 | 6 | 2 | – | 16 | 7 | 62 | 20 | ||
Beşiktaş | 2015–16 | 26 | 4 | 5 | 0 | – | 6 | 1 | 37 | 5 | |||
2016–17 | 29 | 2 | 3 | 1 | – | 1 | 0 | 11 | 3 | 44 | 6 | ||
2017–18 | 26 | 4 | 3 | 1 | – | 1 | 0 | 7 | 0 | 37 | 5 | ||
Tổng cộng | 81 | 10 | 11 | 2 | – | 2 | 0 | 24 | 4 | 118 | 16 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 402 | 64 | 44 | 10 | 6 | 2 | 6 | 1 | 106 | 22 | 564 | 99 |
Quốc tế
Đến ngày 30 tháng 6 năm 2018
Bồ Đào Nha | ||
---|---|---|
Năm | Trận | Bàn |
2003 | 1 | 0 |
2004 | 1 | 0 |
2005 | 2 | 0 |
2006 | 2 | 0 |
2007 | 12 | 1 |
2008 | 7 | 2 |
2009 | – | |
2010 | 2 | 0 |
2011 | 5 | 0 |
2012 | 3 | 0 |
2013 | – | |
2014 | 4 | 1 |
2015 | 6 | 0 |
2016 | 17 | 4 |
2017 | 10 | 1 |
2018 | 8 | 1 |
Tổng cộng | 80 | 10 |
Nickname
Ricardo Quaresma được người hâm mộ gọi là thánh trivela nhờ những cú sút trivela đẹp mắt của anh.