
Rừng Taiga (tiếng Nga: тайга́, IPA: [tɐjˈɡa]; từ một ngôn ngữ Turk) là một khu sinh thái đặc trưng bởi các cánh rừng cây lá kim. Taiga bao phủ gần như toàn bộ phần phía bắc của Alaska, Canada, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy và Nga (đặc biệt là Siberi), cùng với phần xa nhất về phía bắc của Hoa Kỳ (ngoài Alaska), bắc Kazakhstan và khu vực Hokkaido ở Nhật Bản. Đây là quần xã sinh vật đất liền lớn nhất thế giới. Tại Canada, thuật ngữ boreal forest (rừng phương bắc) chỉ phần phía nam của quần xã sinh vật này, trong khi 'taiga' dùng để chỉ khu vực phía bắc có ít cây cối hơn, ngay dưới ranh giới cây gỗ Bắc Cực.
Do Bắc Mỹ và đại lục Á-Âu đã từng được nối với nhau qua cầu đất liền Bering trong quá khứ gần đây, một số loài động-thực vật (chủ yếu là động vật) đã di cư qua cả hai lục địa này và phân bố trong quần xã sinh vật taiga. Các nhóm sinh vật có sự khác biệt tùy theo khu vực, với mỗi chi có vài loài khác biệt, chiếm các khu vực khác nhau của rừng taiga. Rừng taiga cũng có một số loài cây gỗ lá nhỏ rụng như bạch dương, tống quán sủi, liễu và dương rung; chủ yếu ở những khu vực không có mùa đông quá lạnh. Các loài thông rụng lá sinh sống ở những vùng có mùa đông lạnh nhất ở Bắc bán cầu, tại miền đông Siberi. Phần phía nam của rừng taiga còn có các loài cây như sồi, phong và du rải rác trong các cánh rừng cây lá kim.
Vị trí và khí hậu

Khí hậu của quần xã sinh vật taiga rất khắc nghiệt với sự chênh lệch nhiệt độ lớn giữa mùa hè và mùa đông, thường được phân loại là 'Dfc' hoặc 'Dfb' trong hệ thống phân loại khí hậu Köppen. Đây là một trong những quần xã sinh vật lạnh nhất trên hành tinh, cùng với tundra và các chỏm băng vĩnh cửu. Do vị trí vĩ độ cao, mặt trời chỉ ở gần đường chân trời trong phần lớn thời gian trong năm; mùa đông kéo dài ít nhất 5-6 tháng với nhiệt độ trung bình dưới điểm đóng băng. Nhiệt độ có thể dao động từ -50 °C đến +30 °C trong suốt năm, với 8 tháng hoặc hơn có nhiệt độ trung bình dưới 10 °C. Mùa hè ngắn ngủi nhưng thường ấm áp và ẩm ướt. Rừng taiga thường phát triển ở phía bắc của đường đẳng nhiệt 10 °C vào tháng Bảy, đôi khi tới đường đẳng nhiệt 9 °C. Giới hạn phía nam có thể thay đổi đáng kể, phụ thuộc vào lượng mưa; rừng taiga có thể được thay thế bằng thảo nguyên ở phía nam của đường đẳng nhiệt 15 °C nếu lượng mưa rất thấp, nhưng thường kéo dài tới phía nam của đường đẳng nhiệt 18 °C, và ở các khu vực có lượng mưa cao hơn (như miền đông Siberi) có thể kéo dài tới đường đẳng nhiệt 20 °C tháng Bảy. Ở các khu vực ấm hơn, sự đa dạng loài tăng lên với các loài như thông Triều Tiên và vân sam Jezo, và hợp nhất vào các rừng ôn đới hỗn hợp ở bờ biển Thái Bình Dương của châu Á và Bắc Mỹ.
Khu vực rừng taiga thường có lượng mưa thấp quanh năm (trung bình từ 200 đến 750 mm), chủ yếu do mưa vào mùa hè, tuy nhiên tuyết và sương cũng đóng góp một phần đáng kể. Với tốc độ bay hơi thấp trong phần lớn năm, lượng mưa vượt quá lượng bốc hơi, tạo điều kiện cho sự phát triển của thảm thực vật dày đặc. Tuyết có thể tồn tại trên mặt đất lên tới 9 tháng ở các khu vực phía bắc nhất của sinh thái taiga.
Nhiều khu vực hiện tại được coi là taiga từng bị đóng băng trong quá khứ gần đây. Khi các sông băng rút đi, chúng để lại các chỗ lún trên địa hình, sau đó được nước lấp đầy, tạo thành các hồ và đầm lầy (đặc biệt là đất đầm lầy), phổ biến trong rừng taiga.
Đặc điểm đất đai
Đất ở khu vực taiga thường là đất mới và thiếu dinh dưỡng, không có lớp hữu cơ phong phú như trong các rừng ôn đới. Lớp đất mỏng chủ yếu là do khí hậu lạnh làm chậm quá trình hình thành và phát triển của đất, cũng như khả năng của thực vật trong việc khai thác chất dinh dưỡng. Lá rụng và rêu có thể tồn tại lâu trên mặt đất trong điều kiện lạnh và ẩm, hạn chế sự cung cấp chất hữu cơ cho đất. Axít từ lá kim thường xanh làm đất bị chua và tạo ra loại đất gọi là spodozol. Do đất chua, chỉ có địa y và một số loài rêu có thể phát triển.
Các loài thực vật

Có hai kiểu rừng taiga chính:
Rừng taiga chủ yếu gồm các cây lá kim như thông, vân sam, linh sam và thông. Các loài lá thường xanh (vân sam, linh sam, thông) có nhiều cơ chế tự thích nghi để tồn tại trong mùa đông khắc nghiệt, trong khi các loài thông rụng lá - cây gỗ chịu lạnh tốt nhất - lại rụng lá sớm. Các cây gỗ trong rừng taiga thường có rễ nông để tận dụng lớp đất mỏng, và nhiều loài có khả năng sinh hóa theo mùa để chịu đựng giá rét. Hình dạng nón hẹp của cây lá kim phương bắc và các cành rủ giúp tuyết rơi nhanh xuống mặt đất.
Vì mặt trời chỉ lên cao ở đường chân trời, các loài thực vật ở đây gặp khó khăn trong việc quang hợp. Thông và vân sam giữ lại lá trong mùa đông và quang hợp bằng các lá cũ vào cuối mùa đông và mùa xuân, khi ánh sáng dồi dào hơn nhưng nhiệt độ vẫn thấp để cây có thể nảy mầm. Những lá kim của các cây thường xanh giúp giảm thiểu mất nước và màu xanh đậm của lá giúp chúng hấp thụ nhiều ánh sáng hơn. Dù lượng mưa không phải là vấn đề chính, mặt đất bị đóng băng vào mùa đông và rễ cây không thể hút nước, gây khó khăn cho các cây thường xanh vào cuối mùa đông.
Mặc dù rừng taiga chủ yếu có cây lá kim, nhưng một số loài cây lá rộng như bạch dương, dương rung, liễu và thanh lương trà (chi Sorbus) cũng xuất hiện. Các cây thân thảo nhỏ thường mọc sát mặt đất. Đám cháy rừng định kỳ (20-200 năm) dọn sạch các tán cây, cho phép ánh sáng chiếu xuống mặt đất và giúp cây ở tầng thấp phát triển. Cháy rừng là phần quan trọng trong chu kỳ sống của một số loài như thông banksa, với quả nón chỉ mở ra để giải phóng hạt sau cháy. Cỏ phát triển ở các khu vực có ánh sáng, trong khi rêu và địa y phát triển trên vùng đất ẩm ướt gần gốc cây. Tuy nhiên, so với các quần xã sinh vật khác, taiga có sự đa dạng sinh học thấp hơn.
Hệ động vật
Rừng taiga là nơi cư trú của nhiều động vật ăn cỏ lớn và động vật gặm nhấm nhỏ, tất cả đều thích nghi với môi trường khắc nghiệt. Một số động vật ăn thịt lớn như gấu tích lũy năng lượng vào mùa hè và ngủ đông. Các loài khác phát triển lớp lông dày để chống lại cái lạnh mùa đông.
Trong các rừng phương bắc của Canada, nhiều loài hoang dã đang bị đe dọa hoặc nguy cấp, như tuần lộc (Rangifer tarandus), gấu nâu Bắc Mỹ (Ursus arctos horribilis), và chồn sói (Gulo gulo). Sự suy giảm chủ yếu do mất môi trường sống vì sự phát triển phá hủy, chủ yếu là chặt đốn gỗ.
Do điều kiện khí hậu khắc nghiệt, động vật ăn thịt thường không đủ năng lượng từ nguồn thức ăn của chúng; hầu hết năng lượng bị mất giữa các bữa ăn. Các loài chim săn mồi như cú và đại bàng, cùng các động vật ăn thịt nhỏ như cáo và chồn, săn tìm động vật gặm nhấm. Trong khi đó, linh miêu và chó sói, những loài động vật ăn thịt lớn, săn các động vật lớn hơn. Gấu và gấu trúc Mỹ, là những loài ăn tạp, đôi khi còn tiếp cận gần các khu vực có người sinh sống.
Nhiều loài chim như hoét Siberi (Zoothera sibirica), sẻ họng trắng (Zonotrichia albicollis) và chích xanh họng đen (Dendroica virens) di cư tới đây để tận dụng mùa hè dài và nguồn côn trùng phong phú quanh hồ và đầm lầy. Trong khoảng 300 loài chim ở rừng taiga vào mùa hè, chỉ khoảng 30 loài ở lại vào mùa đông. Chúng thường là các loài chim săn mồi lớn như đại bàng vàng (Aquila chrysaetos), ó buteo chân thô (Buteo lagopus), quạ (chi Corvus) và một số loài chim ăn hạt như gà gô (họ Tetraonidae) và mỏ chéo (chi Loxia).
Những mối đe dọa
Một trong những khu vực rừng phương bắc nguyên vẹn lớn nhất, không có con đường cố định, khai thác mỏ, trồng rừng hay phát triển thủy điện, nằm tại Manitoba và Ontario, Canada. Sông Poplar và sông Bloodvein là hai con sông chính chảy qua khu vực này, dọc theo phía đông của hồ Winnipeg, hồ nước ngọt lớn thứ 11 trên thế giới. Khu vực rừng nguyên sinh này đang được cân nhắc đưa vào danh sách di sản thế giới.
Cháy rừng là hiện tượng xáo trộn tự nhiên chính trong rừng taiga và cũng là cơ chế xáo trộn quan trọng trong nhiều kiểu rừng khác như rừng ôn đới, cận núi cao và các rừng sồi lùn ở khu vực khí hậu Địa Trung Hải. Tuy nhiên, nó cũng gây ô nhiễm và làm giảm tính đa dạng sinh học của rừng taiga.
Một mối đe dọa khác đối với các khu rừng đến từ việc chặt phá. Tại Canada, chỉ dưới 8% diện tích rừng phương bắc được bảo vệ, trong khi hơn 50% đã được giao cho các công ty để khai thác gỗ. Hình thức khai thác chính tại các rừng phương bắc ở Canada là chặt sạch toàn bộ cây cối trong một khu vực, dẫn đến việc nhiều cây lớn bị chặt hạ. Đã có báo cáo về việc chặt phá tới 11.000 hecta. Một số sản phẩm từ rừng phương bắc của Canada bao gồm giấy vệ sinh, giấy viết, giấy in báo và gỗ xẻ. Hơn 80% sản phẩm từ rừng phương bắc của Canada được xuất khẩu để chế biến và tiêu thụ tại Hoa Kỳ.
- Chương trình bảo tồn rừng phương bắc, Canada
- Khu vực lãnh nguyên
Chú thích
Liên kết ngoài
- Tundra và Taiga
- Các mối đe dọa đối với rừng phương bắc (Greenpeace) Lưu trữ 2012-01-29 tại Wayback Machine
- Rừng phương bắc/Taiga (WWF)
- Bắc cực và Taiga (Canadian Geographic) Lưu trữ 2006-07-12 tại Wayback Machine
- Quỹ bảo tồn Taiga Canada Terraformers Lưu trữ 2011-02-28 tại Wayback Machine
- Rừng lá kim, Earth Observatory, NASA Lưu trữ 2008-07-04 tại Wayback Machine
- Mạng lưới cứu hộ Taiga (TRN) Lưu trữ 2013-04-06 tại Wayback Machine - Mạng lưới các tổ chức phi chính phủ (NGO), dân bản địa và cá nhân tham gia bảo vệ rừng phương bắc.
- Mục lục khu vực sinh thái rừng phương bắc/taiga tại bioimages.vanderbilt.edu Lưu trữ 2012-09-05 tại Wayback Machine
- Bảo tồn tự nhiên và nỗ lực của các hội viên để bảo vệ rừng phương bắc Canada Lưu trữ 2010-12-13 tại Wayback Machine
- Viện bảo tàng lịch sử tự nhiên Slater: Taiga Lưu trữ 2009-03-16 tại Wayback Machine