Rừng Xà Nu là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyên Ngọc, mang thông điệp về cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong chương trình Ngữ văn lớp 12, học sinh sẽ được khám phá về tác phẩm này.

Mytour mang đến tài liệu giới thiệu về tác giả Nguyễn Trung Thành và nội dung của truyện ngắn Rừng Xà Nu. Kính mời quý bạn đọc cùng tham khảo.
Rừng Xà Nu
Nghe truyện ngắn Rừng Xà Nu tại:
Làng ở trong vùng đất địch thù của địch. Họ bắn pháo, điều đó trở thành thói quen, mỗi ngày hai lần, vào buổi sáng sớm và buổi chiều tối, hoặc giữa trưa nắng chang chang và màn đêm âm u, hoặc giữa những tiếng gà gáy và vầng trăng lẻ loi. Hầu hết pháo đạn rơi vào đồi xà nu gần bên dòng sông lớn. Rừng Xà Nu với hàng vạn cây không có cây nào không gặp tổn thương. Có những cây bị chặt đứt ngang trung, đổ như một trận gió lớn. Tại những vết thương đó, nhựa cây chảy ra, tràn đầy, thơm phức, chói lọi dưới ánh nắng rực rỡ, sau đó từ từ chuyển sang màu đen và dày đặc, hình thành những cục máu lớn.
Trong rừng hiếm có loại cây nào sinh sôi mạnh mẽ như vậy. Gần một cây xà nu mới gục ngã, đã có bốn năm cây con mọc lên, những nhánh xanh mượt, hình thức nhọn như mũi tên bắn lên trời cao. Cũng hiếm có cây nào khao khát ánh sáng mặt trời như thế. Chúng lên cao nhanh chóng để bắt ánh sáng, những tia sáng trong rừng chiếu từ trên xuống dưới, những hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, mùi thơm ngọt ngào. Có những cây con mới lớn đến tầm ngực người lại bị pháo đại bác cắt đứt làm hai. Ở những cây đó, nhựa vẫn còn nguyên, dầu cây vẫn sáng bóng, vết thương không lành lại, tiếp tục chảy ra, vài tháng hoặc vài năm sau thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên cao hơn đầu người, những cành lá bông xum xuê như lông chim đã phát triển đủ. Pháo đại bác không thể làm chúng chết, nhưng vết thương trên chúng lại mau lành như trên một thân cây cường tráng. Chúng phát triển nhanh chóng, thay thế những cây đã bị phá hủy...
Đứng trên đỉnh đồi xà nu đó nhìn ra xa, đến cùng tầm mắt cũng chỉ thấy những đồi xà nu liền kề nhau dẫn dần tới chân trời.
Sau ba năm phục vụ, Tnú mới có cơ hội quay lại thăm làng. Bé Heng, người em gặp ở con đường ven sông, đưa anh về. Khi Tnú ra đi, Heng chỉ còn đến bụng anh, với chỉ một cái xà-lét nhỏ theo người lớn ra rẫy. Nhưng bây giờ, nó đã mang một khẩu súng trường, dẫn đường cho anh. Đường đi vẫn cũ, đi qua những cánh đồng đã trồng sắn và cây pomchu, vượt qua hai dốc được cắt ra từng bậc, lách qua một rừng rậm, mỗi cơn mưa là hàng ngàn lá rụng. Cuối cùng, họ đến làng nhỏ của Tnú. Nhưng nếu không có người dẫn, chắc chắn Tnú không dám đi một mình. Đường đi bây giờ đầy gian nan, có hầm, có hố, mỗi mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, gần như thể hiện sẵn sàng, cần phải thò căng như dây ná, đánh một phát là gãy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh. Bé Heng lớn lên như những người dân ở làng Xô Man, ít nói. Nó đội một chiếc mũ sụp, mặc chiếc áo bà ba dài phết đất, vẫn gắn bó, khẩu súng đeo chéo ngang lưng, tỏ ra như một người lính thực thụ. Thỉnh thoảng, khi tới gần các điểm chiến đấu, nó quay lại nhìn Tnú, cười một cách triệu hồi, như muốn nói:
- Anh Tnú thấy thế nào?
Mắt nó lóe sáng lên, thể hiện sự tự hào rõ rệt. Tnú cũng cười, gật đầu. Hiểu ý nhau, hai người tiếp tục bước đi. Khi đến một con suối nhỏ có nguồn nước từ trong đá, Heng dừng lại nói:
- Rửa chân đi, nhưng đừng uống nước lạnh, về đến nhà chị Dít chắc chắn sẽ phê bình anh.
Tnú cười:
- Chị Dít là nhân viên vệ sinh à?
Heng bác bỏ:
- Không, chị Dít là bí thư chi bộ đấy. Một người làm cả hai việc, thậm chí còn đảm nhận cả vai trò chính trị viên của xã đội.
À vậy à! Dít đã trở thành bí thư chi bộ của xã. Thực sự, anh không thể tưởng tượng được Dít bây giờ ra sao? Dít là em gái của Mai. Ngày Mai qua đời và Tnú ra đi, Dít vẫn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ, đốt lửa ngồi đến sáng, đợi gà gáy rồi mới đi giã gạo thay chị. Tnú sắp xếp mấy cây xà nu soi cho Dít giã gạo. Dít giã đủ ba mươi lon gạo trắng, rồi đổ ruột nghé cho Tnú mang đi. Nó im lặng, không nói gì, đôi mắt lấp lánh trong khi mọi người, thậm chí cả ông già Mết đều khóc vì cái chết của Mai...
Heng thúc giục:
- Nước tắm lạnh quá, có thể làm sốt đấy. Hãy đi đi, sắp tối rồi!
Tnú không làm khô tóc. Anh đội mũ và đi theo Heng.
Khi đến gần khu vực vào rừng lúc lách, có một cây lớn nằm ngang đường, phải băng qua. Gần đó, du kích đã khai một đường hầm dài. Lúc Tnú ra đi, cây này vẫn đứng. Tnú dừng lại. Đây chính là nơi anh gặp Mai lần đầu tiên. Tất nhiên không phải lần đầu tiên tuyệt đối, cả hai đều là người làng, họ biết nhau từ khi còn bé. Nhưng ở đây, lần đầu tiên sau khi ra khỏi tù, Tnú gặp lại Mai, thấy Mai đã trưởng thành hơn anh tưởng, và Mai giữ hai bàn tay anh khi đó còn sức khỏe, rơi lệ, không phải như một đứa trẻ mà như một người phụ nữ đã lớn, vừa ngượng ngùng vừa ân cần. Kỷ niệm đó đâm sâu vào trái tim anh như một lưỡi dao. Anh trừng mắt lên, giống như khi bị tra tấn đau đớn trước kia. Heng, cậu bé không biết về câu chuyện đó. Trèo lên thân cây, sau đó quay lại nhìn Tnú, hỏi:
- Đi đi, anh Tnú! Lâu ngày không về, chân không còn trèo dốc này nữa à?
Tnú vượt qua thân cây. Con đường đi xuống đồi đầy hố chông.
Khuôn mặt của Tnú trở nên nghiêm nghị. Anh đi im lặng cho đến khi nghe thấy tiếng chày gõ từ làng. Lúc này, anh mới nhận ra rằng điều anh nhớ nhất về làng, điều khiến lòng anh khao khát trong suốt ba năm qua, chính là âm thanh của tiếng chày, tiếng chày chăm chỉ, sôi động của những người phụ nữ và cô gái Strá, của người mẹ xa xưa của anh, của Mai, của Dít, từ khi anh còn là một đứa trẻ. Tnú cố gắng giữ vững bình tĩnh nhưng trái tim anh vẫn đập mạnh, chân anh vấp phải những rễ cây khi đi vào làng. Anh tiến lên trước, Heng chạy theo sau, vừa hét lên:
- Có khách đến rồi, có khách đấy, không phải lúc trước đâu, theo tôi đi...
Khi đến làng, mặt trời vẫn chưa lặn. Heng đặt súng xuống đất và hét to:
- Ông bà ơi, có khách đến đây rồi!
Tại mỗi cánh cửa, có một vài người xuất hiện, đôi mắt tròn to, rồi những tiếng kêu reo vang lên:
- Giàng ơi… Anh Tnú đã trở về. Tnú đã quay lại đây rồi… Mày đã trở lại đấy, phải không Tnú!
Có những người không kịp bước từ cầu thang xuống, mà nhảy xuống từ trên sàn xuống đất. Những bà già - Ôi trời ơi, bà cụ Leng vẫn còn sống à! - lao ra từng bước từng bước của cầu thang, trong khi càu nhà, họ cũng mắng mỏ:
- Con cháu! Ma nó bắt mày, thằng quỷ!… Mày không chờ tau chết rồi mới về à!
Ở các nhà, những cái đầu vẫn lòi ra. Các cô không chạy ra ngoài, chỉ ngồi trong nhà, cười nói tấn công. Cả làng đều quây quần xung quanh Tnú. Anh nhận ra tất cả. Ông già Tâng kia, vẫn đeo râu quai nón, thêm một ống điếu dài, gò bằng sắt của máy bay trực thăng; anh Pre kia, trông như đã già hơn; chị Plom kia, tóc đã bạc trắng; bà già Prôi kia, đã mất hết cả hai hàng răng… một đám trẻ con nát ruột, mặt mày lem luốc trong khói xà nu. Còn ông già Mết đâu rồi? Tnú định hỏi:
- Cụ Mết ở đâu?
Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một cái kìm sắt. Anh quay lại: Ông Mết! Ông vẫn giữ vững dáng vẻ cũ, râu dài chảy dài xuống ngực, sáng mắt và rõ lồi. Vết sẹo trên má phải vẫn sáng bóng. Ông đứng thẳng, ngực toàn tròn như một cây xà nu lớn. Ông đẩy Tnú ra xa một chút, nhìn anh từ đầu đến chân, sau đó cười vang:
- Hà hà!… Đeo cả tóm-xơi về à!… Anh lính… Được!
Tnú hiểu ý của ông. Ông không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!” Những khi vừa ý nhất, ông chỉ nói “Được”.
Khi ông Mết nói, mọi người đều im lặng. Ông phát biểu như một lệnh, mặc dù ông đã sáu mươi tuổi, giọng nói vẫn rừng rực trong lòng ngực.
- Đưa chỉ huy cho về mấy đêm?… Một đêm, được! Cho một đêm, về một đêm; cho hai đêm, về hai đêm, phải tuân thủ chặt chẽ. Đêm nay mày ở nhà tao.
Không ai phản đối. Ông cụ nói tiếp:
- Mọi người về nhà đi, đã sáng rồi, đủ thời gian nấu cơm. Các em nhỏ đi tắm sạch sẽ, rửa khói xà nu đi, đừng có trông như những người đóng kịch, không sạch sẽ sẽ bị phê bình đấy… Tnú, cậu cũng đi rửa chân đi. Cậu nhớ máng nước ở đâu không?… Được, tưởng cậu quên thì tao đuổi cậu ra rừng, không cho ở lại làng nữa đấy.
Dù nói vậy, ông cụ vẫn nhắc Tnú đưa ba lô và tôm-xơi, rồi hướng dẫn anh đến máng nước ở đầu làng. Lũ trẻ con đông đúc sau lưng anh, có mấy cô gái mà Tnú nhớ mặt nhưng không nhớ tên, đang lấy nước bằng ống bương dài, dùng ống đứng để nhường vòi nước cho anh. Dù đã rửa sạch ở suối nhỏ, nhưng Tnú vẫn rửa thêm một lần nữa. Anh cởi áo để nước suối lạnh lẽo giội lên đầu, lưng, ngực, như ngày xưa, chính ở đây, nơi ông cụ Mết vẫn mài dao.
Ông cụ Mết nhìn tấm lưng rộng của Tnú một cách lặng lẽ. Những vết thương xưa vẫn nằm trên đó, đã thành sẹo đỏ. Hai giọt nước mắt lăn dài từ đôi mắt ông cụ, nhưng ông nhanh chóng lau chùi. Tnú không nhìn thấy. Lũ trẻ con đứng xem mọi chuyện với sự ngạc nhiên…
Khói mù mịt từ các nhà đã cuộn lên cao.
Bữa tối ở nhà cụ Mết, ngoài canh tầu môn bạc hà nấu trong ống nứa, còn có mấy con cá chua. Đó là món đặc biệt cụ Mết dành cho người về thăm. Tnú mở hộp muối, xúc cho cụ một muỗng muối. Cụ Mết nói:
- Tao còn nửa lon muối của huyện, con Dít mang về từ đại hội chiến sĩ thi đua, nó chia đều cho mỗi nhà một ít. Nhưng cái đó dành cho người bệnh. Còn cái này, mày ăn đi.
Cụ không cho muối vào canh. Cụ chia cho mỗi người một ít muối, họ ăn từng hạt, ngậm trong miệng để cảm nhận hương vị mặn đậm. Cơm trắng ở đây cũng rất nhiều. Cụ Mết bưng chén cơm và nói:
- Năm nay làng không thiếu thốn. Gạo đủ ăn đến mùa. Nhưng phải tiết kiệm, dự trữ cho mỗi nhà ít nhất ba năm. Mày đi cách mạng, người chỉ huy cũng đã dạy mày rồi, đánh Mỹ phải đánh dài.
Rồi đột ngột, ông cụ hỏi:
- Còn đó mày vẫn chưa mọc được à?
Cụ Mết đặt chén cơm xuống, tức giận:
- Nhưng hết sẹo rồi chứ? Được. Ngón tay còn lại cũng có thể cầm súng. Mày đã đi qua rừng xà nu gần con suối lớn chưa? Nó vẫn tồn tại đấy. Không có cây nào mạnh bằng xà nu của chúng ta. Cây mẹ gãy, cây con mọc lên. Đoán xem nó có thể hủy diệt hết rừng xà nu này không!… Ăn đi, gạo người Strá mình làm ra ngon nhất vùng này đấy, con ạ…
Sau khi ăn uống xong, từ nhà ưng phát ra một tiếng đồng hồi ba tiếng. Dân làng kéo tới nhà cụ Mết. Các cô gái dập tắt đuốc trước khi bước vào nhà. Có người cầm cây đuốc sáng chói và soi kỹ lưỡi dao Tnú rồi ném vào bếp, lửa bùng lên. Các ông cụ không bước vào cầu thang đã kêu to:
- Tnú đâu rồi? Ông Mết ơi, cho nó no rồi đi!
Một bà cụ phát biểu:
- Anh em này, nhường chỗ cho Dít ngồi đi. Dít ơi, ngồi đây nào con!
Tnú nhìn lên. Dít ngồi sụp xuống trước mặt anh, hai chân chồm về một bên, kéo tấm váy che kín cả gót chân. Tnú cảm thấy một luồng lạnh chạy qua mặt và ngực. Mai! Trước mắt anh là Mai đấy. Anh không ngờ Dít lớn lên lại giống Mai đến như vậy. Cái mũi hơi tròn của Dít ngày xưa giờ đã thẳng và nhỏ hơn, lông mày đậm che kín đôi mắt mở to, bình thản, trong sáng. Dít nhìn Tnú bằng đôi mắt đó lâu, trong khi bốn, năm đứa bé, đứa nào cũng tranh nhau chỗ ngồi gần chị Dít. Rồi chị hỏi Tnú, giọng hơi lạnh lùng:
- Anh về có đồng chí không?
Tnú không hiểu:
- Cần giấy gì vậy?
- Giấy chứng nhận nghỉ phép từ cấp trên đó. Không có giấy từ cấp trên xác nhận thì không được về. Ủy ban phải tuân thủ quy định.
Tnú cười phá lên. Anh ban đầu định đùa, nói về việc trốn về thăm làng một lần, nhưng khi nhìn thấy ánh mắt nghiêm túc của Dít và cả sự im lặng chờ đợi xung quanh, anh lấy túi áo ra, rút ra một tờ giấy nhỏ đưa cho chị.
- Báo cáo cho đồng chí chính trị viên xã đội…
Dít cầm tờ giấy, chiếu ánh lên ngọn lửa. Hàng chục đầu hướng về phía cô, một số trẻ nhỏ lắp bắp đọc. Dít đọc lâu, đọc đi đọc lại ba lần. Cụ Mết hỏi:
- Đúng không? Anh có giấy phép không?
Dít trả lại cho Tnú. Lúc này, chị mới nở một nụ cười:
- Đúng rồi, có chữ ký của chỉ huy đó. Sao anh chỉ về một đêm thôi?
Sau đó chị nói:
- Được thôi. Về một đêm để làng thấy mặt là được. Bọn em ai cũng nhắc anh suốt.
Tiếng cười và lời nói im lặng một lúc, bây giờ lại vang vọng trong căn nhà nhỏ.
- Có chữ ký của chỉ huy đó nè!
- Đúng là tốt quá!
- Một đêm thôi, mai lại đi rồi, thật tiếc quá!
Tiếng ông cụ Mết phá vỡ im lặng với tiếng ồ ồ của mình:
- Được rồi!
Ông cụ đẩy các em nhỏ ra, ngồi xuống gần bếp lửa, cạnh Tnú. Ông cụ gõ ống điếu lên đầu, làm sạch và kiểm tra kỹ ống điếu. Rồi ông nhìn quanh phòng, mọi người đều chờ đợi. Ông cụ bắt đầu phát biểu. Bên ngoài, mưa đêm nhỏ rơi nhẹ nhàng như làn gió. Ông cụ nói nhẹ nhàng, nhưng rất trầm ngâm:
- Người già và bà già chắc đã hiểu rồi. Thanh niên có người biết, có người chưa. Còn lũ trẻ thì cần phải biết - Ông cụ nhìn chằm chằm vào lũ trẻ, chúng cảm nhận được sự nghiêm trọng trong lời của ông cụ, im lặng ngồi một chỗ, dán mắt vào ông cụ Mết - Anh Tnú của chúng mày đã về rồi. - Ông cụ đặt tay chắc nịch lên vai Tnú - Tau đã kể cho chúng mày nghe về anh Tnú bao nhiêu lần rồi đấy. Anh ấy đây, anh ấy đi giải phóng quân chống giặc, hôm nay anh ấy về thăm làng một đêm, ủy ban đã cho anh ấy về một đêm, có chữ ký của chỉ huy, chị bí thư đã kiểm tra giấy rồi. Anh ấy đây! Anh ấy là người của làng Strá. Cha mẹ anh ấy mất sớm, làng Xô Man nuôi dưỡng anh ấy. Cuộc đời anh ấy khó khăn, nhưng lòng anh luôn sạch như nước suối làng ta. Đêm nay, ta sẽ kể chuyện về anh ấy cho cả làng nghe, để mừng anh ấy về thăm làng. Ai có tai nghe, ai có lòng yêu núi, yêu nước, hãy lắng nghe và ghi nhớ. Sau này khi ta khuất, các em phải kể lại cho con cháu nghe...
Tất cả mọi người đều im lặng. Chỉ có tiếng nước chảy trong máng là lạnh và tiếng mưa rơi nhẹ nhàng lên lá cây. Tnú cũng trầm lặng. Anh nhìn ông cụ Mết. Ánh lửa lung linh, soi rọi hình bóng ông cụ, tạo nên một hình ảnh hùng vĩ như các anh hùng trong những ca khúc dài mà Tnú đã từng nghe từ thuở nhỏ. Rồi anh nhìn Dít. Dít đã lớn như Mai, từ khi anh ra tù về, cây lớn ở gốc rừng đã đổ và trở thành điểm cản của đoàn du kích. Dít cũng ngồi im lặng, mắt mở to, bình thản suy tư.
- Người già không quên, nhưng người chết đã quên, để những ký ức sống lại trong người sống. Hồi đó, thằng Mỹ - Diệm thảo đi khắp núi rừng này. Nó đi trong rừng như con beo. Quân của nó cầm lưỡi lê dính máu, cũng đỏ như mũ đỏ của nó... Thằng Tnú còn nhỏ, chỉ tới ngang bụng tao đấy. Nó lạnh lùng như con sóc...
Chắc chắn, những người cao tuổi không quên. Các em nhỏ cũng không quên, và Tnú cũng thế. Anh thấy rõ một đứa bé đứng chỉ tới ngang bụng của ông cụ Mết. Nó đeo trên vai một chiếc xà-lét nhỏ của mẹ để lại, bên trong đó, cùng với bó rau, là hai lon gạo trắng. Nó leo như một con sóc qua những hốc đá cheo leo, chạy lung tung trong rừng để tìm nuôi anh cán bộ. Một cô bé nhỏ hơn nó hối hả đuổi theo. Cô bé vén chiếc váy mới dệt của mẹ, nhảy từ đỉnh này sang đỉnh khác như một con chim sáo, vừa nhảy vừa gọi lanh lảnh:
- Tnú, Tnú, chờ tí đi, chờ tí đi.
Tnú quay lại với ánh mắt trừng trừng:
- Giữ bí mật nhé, Mai. Sao cứ như con mang phải mối đi vậy!
Mai muốn cười, nhưng sợ Tnú, không dám mỉm cười…
Vâng, tất cả vẫn còn đọng lại. Không cái gì có thể phai nhạt. Rõ ràng như ban mai, đây là Tnú, đây là ông cụ Mết, đây là anh cán bộ.
Như ngày hôm qua vậy.
Anh cán bộ ở trong rừng lúc đó là anh Quyết. Khi thằng Mỹ - Diệm đến núi rừng này, không một ngày nào anh không đi săn, không một đêm nào chó và súng của anh không vang lên khắp rừng. Nhưng dân làng Xô Man vẫn tự hào. Đã năm năm không ai trong làng bị giặc giết hoặc bắt trong rừng này. Ban đầu, thanh niên đi nuôi và gác cho cán bộ, thằng Mỹ - Diệm biết, nó bắt thanh niên. Nó treo anh Xút lên cây vả đầu làng.
- Ai ủng hộ cộng sản thì đó chính là kết cục!
Sau đó, nó cấm thanh niên đi rừng. Nhưng bà già và ông già thay cho thanh niên đi nuôi cán bộ. Nó biết được, và nó giết bà già Nhan, treo đầu cô lên cột tóc treo súng.
Cuối cùng, đến lượt những đứa trẻ thay thế ông cụ và bà cụ. Trong nhóm đó, có Tnú và Mai là những đứa năng động nhất. Khi Tnú đi rẫy, Mai lại đi với anh cán bộ. Khi Mai ở nhà chăm sóc Dít, Tnú lại đi. Cũng có một buổi cả hai đứa đi cùng nhau. Họ ở lại ngoài rừng suốt đêm. Để cán bộ ngủ một mình ngoài rừng về đêm, không ai yên tâm. Nếu bị giặc truy lùng, ai sẽ dẫn cán bộ chạy? Anh Quyết hỏi:
- Các em có sợ giặc không? Nó giết như anh Xút, như bà Nhan đấy.
- Ông cụ Mết nói: Cán bộ là Đảng. Đảng còn, nước nhà này còn.
Trong rừng, anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ. Họ chia nứa cây, đập dập, ghép lại thành mấy tấm bảng lớn bằng ba bàn tay. Ba anh em đốt khói xà nu xông lên bảng để nó đen và sau đó dùng nhựa cây để phủ lên mặt bảng, làm cho nó không bị phai màu. Tnú đi ba ngày đường tới núi Ngọc Linh để lấy một xà-lét đầy đá trắng để làm phấn. Mai học giỏi hơn Tnú, chỉ mất ba tháng là biết đọc và sáu tháng sau đã làm được phép tính cộng trừ. Tnú học chậm hơn, thường nổi giận. Khi học đến chữ i dài, anh quên mất chữ o và cái móc, khiến cho anh chỉ đọc được chữ a. Một lần thua Mai, anh đập vỡ bảng trước mặt Mai và anh Quyết, rồi đi ra suối ngồi một mình suốt cả ngày. Anh Quyết cố dỗ anh, nhưng anh không nói gì. Mai cũng đến dỗ, nhưng anh chỉ muốn đánh Mai. Mai vẫn ngồi yên lặng bên cạnh anh.
- Tnú ở lại, tui cũng không đi. Hãy về đi, anh Tnú. Mai sẽ làm một bảng khác cho anh.
Nắm một viên đá, tự mình đập vào đầu, khiến máu chảy ròng ròng. Anh Quyết phải băng bó cho nó. Đêm đó, anh ôm nó trong hang đá. Anh rủ rỉ:
- Nếu sau này, Mỹ - Diệm giết anh, Tnú phải đảm nhận vai trò của một cán bộ thay thế. Không biết chữ sao có thể trở thành một cán bộ giỏi?
Tnú giả vờ ngủ không lên tiếng. Nó lén lau nước mắt. Sáng hôm sau, nó gọi Mai ra phía sau hang đá:
- Mai hãy giúp tôi biết chữ o có dấu móc là chữ gì. Và chữ chi đứng sau đó, có cái bụng to.
Mai quay mặt đi, không dám cười. Nó viết một chữ có bụng to lên bảng mà nó mới làm cho Tnú. Nó cố gắng nói nhỏ nhưng giọng vẫn lạnh lùng:
- Anh nhớ giỏi lắm, chữ bê đó.
- Ừ, bê… bê… đầu tôi ngu quá!
Tnú thường hay quên chữ, nhưng khi đi đường núi, trí óc của nó lại sáng sủa lạ lùng. Nó liên lạc với anh Quyết từ xã lên huyện. Không bao giờ nó đi theo đường mòn, mà thay vào đó, nó leo lên một cây cao để nhìn xung quanh, rồi sau đó làm đường đi bằng cách xé rừng. Thậm chí khi qua sông, nó còn không thích lội qua chỗ nước êm, mà thích chọn những chỗ thác mạnh để bơi ngang, vượt qua như một con cá kình. Nó nói:
- Thằng Mỹ - Diệm thường hay ngờ vực ở chỗ nước êm, không ngờ nơi nước mạnh.
Tuy nhiên, lần đó, khi Tnú tới một thác trên sông Đắc - năng, vừa cuốn cái thư của anh Quyết gửi về huyện trong một lá dong, định vượt qua thác, thì bị súng của giặc phục kích chĩa vào tai. Tnú chỉ kịp nuốt luôn cái thư.
Ba ngày sau, người Xô Man chứng kiến bọn giặc trói chặt Tnú dẫn về làng.
- Ai ủng hộ cộng sản, thì chỉ có chết!
Dân làng tụ tập quanh Tnú. Ông cụ Mết đứng bên cạnh Tnú, Tnú chỉ cao tới bụng ông cụ. Ông cụ nói bằng tiếng Strá, giọng trầm vang dội:
- Tnú, đừng làm xấu hổ cho làng Xô Man.
Tnú chỉ đáp lại ông cụ bằng một cái ánh mắt.
Ông cụ phát biểu:
- Đồng ý!
Lưng Tnú vẫn còn vết dao chém dài.
- Cộng sản đâu rồi?
Tnú nói nhỏ nhẹ:
- Thả tay ra, chỉ được một bên.
Chúng chỉ giải mở một bên tay. Tnú đặt tay lên bụng:
- Ở đây này:
Lưng Tnú thêm một vết chém mới. Mảnh da trên lưng chỉ rộng bằng chiều ngang của cái xà-lét mẹ để lại, đang chảy một dòng máu đậm, từ sáng tới tối, nó đọng lại như một vệt tím đậm, như nhựa xà nu.
Khi chúng lại kéo Tnú đi, Mai ôm Tnú khóc lên thảm thiết. Nó nói với vẻ giận dữ:
- Đừng khóc! Không được! Mai phải học giỏi. Nếu tôi mất, Mai phải trở thành cán bộ...
Ba năm sau, Tnú thoát khỏi nhà tù Công-tum, trở về làng, lưng anh đã lành hoàn toàn. Anh gặp Mai dưới gốc cây to ở lối rẽ vào rừng. Mai nắm tay anh, nước mắt rơi lạnh lùng. Trong khi đó, anh ngạc nhiên khi nhận ra Mai đã trưởng thành hơn anh tưởng. Mai dẫn anh về làng. Đêm đó, mọi người trong làng cũng tụ tập ở nhà của ông cụ Mết, như đêm nay...
Tiếng của ông cụ Mết vang vọng như từ một thời xa xăm.
Giống như đêm hôm ấy. Giống như đêm nay, trong căn nhà này, quanh chiếc bếp này. Trời vẫn mưa nhỏ rơi như thế này. Tôi ngồi ở đây, đúng chỗ này. Tnú ngồi ở đây. Còn Mai ngồi ở đây, chỗ con Dít ngồi bây giờ... Đúng không, Tnú?
Vâng! Mọi thứ vẫn như vậy. Mưa vẫn rơi nhỏ nhẹ trên lá vả, lửa xà nu vẫn cháy rẽ rít, máng nước đầu làng vẫn chảy trong đêm tối. Cả làng tụ tập ở đây để chào đón Tnú trở về từ tù Công-tum. Mai vẫn ngồi trước mặt Tnú như thế, đôi mắt vẫn có đôi lông mày đậm che phủ, có lẽ ít nghiêm túc hơn, nhưng vẫn đầy tình yêu, vẫn bình thản, vẫn kiên định. Và lúc đó, ông cụ Mết không kể chuyện như bây giờ. Ông chỉ nói:
- Mai, mang giấy của anh Quyết đây, Tnú sẽ đọc cho cả làng nghe.
Sau khi Tnú bị bắt, không lâu sau đó, anh Quyết được chuyển đến huyện Bảy và hy sinh ở đó. Anh bị thương nặng trong một trận phục kích và qua đời trong rừng. Trước khi ra đi, anh viết thư này gửi về làng Xô Man. Tnú nhìn mảnh giấy, soi nó dưới ánh sáng của lửa xà nu:
“Em Tnú, em Mai và các cư dân Xô Man, tôi sắp qua đời. Những ai còn sống phải chuẩn bị các công cụ cần thiết như giáo, mác, vụ, rựa, tên, và ná. Hãy giấu chúng kỹ trong rừng và đừng để giặc lấy được. Sẽ đến lúc cần sử dụng chúng.
Tnú cần phải học giỏi và thay thế tôi trở thành cán bộ…”
Vâng, tất cả vẫn giống như trước đây. Cụ Tâng, anh Pre, chị Plom, bà Prôi, và cụ Leng. Chỉ khác là có thêm Mai. Tnú đọc thư của anh Quyết và cả làng đốt lửa xà nu theo lời cụ Mết. Họ đi dưới mưa đêm, càng về khuya càng nặng giọt, vào rừng lấy giáo, mác, vụ, và rựa, đã được giấu kỹ từ khi nhận thư của anh Quyết. Tnú đi ba ngày lên núi Ngọc Linh nhưng không mang về một xà-lét đá trắng để làm phấn như ba năm trước. Thay vào đó, anh mang về một gùi đá mài nặng. Trên đỉnh núi Ngọc Linh, có một mỏ đá mài đủ lớn cho hàng trăm cuộc khởi nghĩa.
Mỗi đêm làng Xô Man thức trắng, chuẩn bị vũ khí. Ban ngày, họ theo cụ Mết đi phát các rẫy cũ, trồng phomchu và sắn, làm xanh mát cả núi rừng…
Tin tức về việc làng Xô Man mài giáo lan tỏa đến tai của kẻ giặc ở đồn Đắc Hà. Trong mùa lúa, chúng bất ngờ xâm nhập với một tiểu đội quân, chính là lúc đứa con trai của Mai và Tnú chào đời. Thật nguy hiểm, người chỉ huy lại là thằng Dục, người từng gây rối năm trước. Anh ta đội mũ đỏ máu, tỏ ra hung dữ:
- Lại là thằng Tnú, không ai khác. Con người mạnh mẽ đó, nếu không tiêu diệt sớm, sẽ gây nên rối loạn trong rừng này.
Cụ Mết và Tnú dẫn thanh niên vào sâu trong rừng. Họ không đi xa, chỉ lẩn khuất ở những gốc cây, hang động quanh làng, theo dõi các đội quân giặc. Các kẻ giặc đóng cửa làng trong bốn ngày, không tha cho bất kỳ ai. Tiếng khóc rền vang khắp làng. Thằng Dục nhấn chặt khẩu súng lục:
- Ai dám rời khỏi làng sẽ bị bắn ngay tại chỗ.
Không ai có thể thoát ra. Chỉ có đứa bé Dít, nhỏ nhắn, khôn khéo, lén lút bò theo đường ống nước để mang gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và các thanh niên. Vào buổi sáng thứ tư, chúng bắt được cô bé khi nó quay về từ rừng. Họ buộc cô bé đứng giữa sân, chuẩn bị xử bắn, từng viên một, nhưng không một viên nào trúng, đạn chỉ vọt qua tai, lướt tóc, làm đất bắn xung quanh hai chân bé Dít. Chiếc váy của cô bé rách từng miếng. Cô bé khóc lớn, nhưng sau viên đạn thứ mười, nước mắt của cô bé ngưng chảy, từ đó im lặng. Đứng giữa đám lính, mỗi tiếng súng nổ, cơ thể nhỏ bé của cô bé lại bật lên, nhưng đôi mắt của cô bé vẫn nhìn bọn giặc bằng sự bình tĩnh lạ lùng, giống như đôi mắt của chị bí thư bấy giờ.
Không làm gì được với đứa bé, thằng Dục dùng cách cuối cùng, hắn bắt Mai.
- Bắt được cọp cái và cọp con, sẽ dụ được cọp đực trở về.
Tnú nghe rõ điều đó từ thằng Dục. Anh ẩn mình sau gốc cây gần máng nước đầu làng. Từ đó, anh nhìn thấy sân làng rõ ràng. Hai bàn tay của anh cố gắng kẹp chặt vào gốc cây khi đám lính, mười người, dẫn Mai ra giữa sân. Mai ôm con trên lưng, đứa bé chưa đầy một tháng tuổi. Mọi người nói bé giống Tnú đến kỳ lạ. Không có vải để mua, Tnú phải xé mảnh vải của mình làm tấm che cho Mai đỡ con. Đứa bé nằm trong tấm vải đó, ngủ say trên lưng mẹ.
Thằng Dục hỏi:
- Chồng mày ở đâu, còn kẻ cộng sản nào không?
Mai nắm chặt đứa con trên vai, nhìn thẳng vào ánh mắt của thằng Dục.
- Mày câm à? Con chó cái! - Nó la mắng đám lính - Đứng nhìn à?
Một thằng lính to béo nhất nhìn thẳng vào thằng Dục, cầm một cây sắt dài tiến đến gần Mai. Nó lưỡi liếm quanh môi một vòng, sau đó giơ cây sắt lên từ từ. Mai kêu lên, chị nhanh chóng tháo tấn địu, kịp thời đặt bé xuống khi cây sắt đập xuống.
- Thằng Tnú ở đâu, hả?
Cây sắt thứ hai đập vào phía trước ngực Mai, chị lật đứa bé ra phía sau lưng. Nó lại đánh sau lưng, chị lật đứa bé ra phía trước ngực. Trận mưa cây sắt dồn dập, không nghe thấy tiếng thét của Mai nữa. Chỉ nghe đứa bé khóc lên một tiếng rồi im lặng. Chỉ còn tiếng cây sắt nện xuống vang vọng.
Tnú bỏ cây gậy của anh. Đó là một cây vả. Anh đã làm đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh nhìn lên. Một bàn tay níu chặt anh lại. Tiếng cụ Mết nặng trĩu:
- Đừng! Tnú! Để tôi!
Tnú đẩy tay ông cụ ra. Ông cụ nhắc lại:
- Tnú!
Tnú quay lại. Ông cụ không nhìn thấy Tnú nữa. Ở đôi mắt của ông cụ bây giờ là hai tia lửa rực sáng. Ông cụ buông vai Tnú ra.
Một tiếng thét dữ dội. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục tháo chạy vào nhà ưng. Tiếng lên đạn vang vọng quanh khu vực. Rồi Mai ôm đứa con chúi vào ngực anh. Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.
- Mày đây để đâu thịt người, Tnú ơi…
Tnú không thể cứu sống được Mai…
- Ừ. Tnú không thể cứu sống được mẹ con Mai…
Tiếng ông cụ Mết vẫn trầm trọng và nặng nề. Ông cụ vụng về lau đi một giọt nước mắt. Bất ngờ ông cụ lên tiếng to:
- Tnú không thể cứu được vợ và con. Tối đó Mai đã qua đời. Đứa con thì cũng không sống sót. Thằng lính to béo đánh một cây sắt vào phía bên trong bụng nó, khi mẹ nó ngã, không kịp bảo vệ. Nhớ không Tnú, mày cũng không thể cứu được vợ mày. Còn mày, chúng nó bắt mày, và mày chỉ có hai bàn tay trắng trợn, chúng nó buộc mày lại. Còn tau, lúc ấy đứng phía sau gốc cây vả. Tau nhìn thấy chúng nó buộc mày bằng dây rừng. Tau không ra mặc cho mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay trắng. Tau không ra, tau rút lui vào rừng, đi tìm giáo và mác. Nghe rõ chưa, các con? Nhớ kỹ đấy, ghi kỹ vào lòng. Sau này khi tau mất, các con còn sống phải kể lại cho con cháu nghe. Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!…
Chúng nó trói chặt Tnú bằng dây rừng, ném vào góc nhà rồi kéo đi ăn thịt con heo của anh Prôi.
Tnú nằm trong góc nhà. Bóng tối mịt mùng. Anh suy tư, cảm thấy bất ngờ khi thấy mình rất bình tĩnh:
“Đứa con đã chết, Mai có lẽ cũng không còn sống. Tnú cũng sắp phải rời bỏ. Ai sẽ làm cán bộ sau này? Khi Đảng ra lệnh, ai sẽ làm lãnh đạo dân làng Xô Man đứng lên chống lại kẻ thù. Cụ Mết đã già. Vâng, chỉ còn lại mấy thanh niên. Rồi con Dít sẽ trưởng thành. Đứa bé đó mạnh mẽ hơn cả chị nó. Không vấn đề gì… Chỉ tiếc là Tnú không thể sống đến ngày đứng dậy bên dân làng, cầm vũ khí…”
Thằng Dục không giết Tnú ngay lập tức. Nó đốt một ngọn lửa lớn tại nhà ưng, thu hút tất cả dân làng đến, tháo dây trói cho Tnú, sau đó nó nói với mọi người:
- Nghe nói chúng mày đã mài sẵn rựa, mài giáo chưa? Được, ai muốn cầm rựa, cầm giáo thì nhìn vào bàn tay của thằng Tnú này.
Nó chỉ tay sang hướng thằng lính to béo nhất. Chúng nó đã sẵn sàng. Thằng lính mở túi ra, rút ra một bó giẻ. Giẻ đã được ngâm trong dầu xà nu. Nó quấn lên mười ngón tay của Tnú. Rồi nó lấy một cây nứa. Nhưng thằng Dục lên tiếng:
- Để tao làm!
Nó nhanh chóng cướp lấy cây nứa.
Tnú không hề phát ra một tiếng kêu nào. Anh nhìn thẳng vào thằng Dục với ánh mắt sắc lạnh. Nói cười mỉa mai, nó tiến gần đưa ngọn lửa sát vào mặt anh:
- Nhìn kỹ mặt thằng đồng chí muốn cầm vũ khí này đi xem thế nào. Cuộc đời của mày không dành cho việc theo đuổi giáo sư. Hãy từ bỏ ý nghĩ về giáo sư đi, nghe không?
Một ngón tay của Tnú bắt đầu bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không gì so với sự cháy của xà lúa. Ngọn lửa bùng cháy nhanh chóng. Mười ngón tay đã trở thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, sau đó mở ra nhìn một cách trầm trồ.
Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm nhận được sự cháy ở mười ngón tay nữa. Anh cảm thấy lửa bốc cháy trong lòng ngực, lan ra cả bụng. Máu anh đắng như mật ở lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi. Anh không kêu lên. Anh Quyết đã nói: 'Người cộng sản không cần phải van xin...' Tnú không cần, không cần van xin. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy từ trong thân hình này! Anh Quyết ơi! Không, Tnú sẽ không van xin! Không!
Tiếng cười phá lên của thằng Dục. Các cụ già nhảy dậy, bọn lính lùa ra. Tiếng kêu của những người dân. Tiếng bước chân ồn ào vây quanh nhà ươm. Ai đó đó là ai?
Tnú phát ra một tiếng la hét. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng la hét của anh bỗng trở thành những tiếng la hét dữ dội hơn. Tiếng “giết”! Tiếng chân ai đạp lên sàn nhà ươm ào ào. Tiếng bọn lính kêu rên rẽ. Tiếng cụ Mết la lên: “Chém! Chém hết!” Cụ Mết, đúng rồi, cụ Mết, đã đứng đấy, giáo mác dài trong tay. Thằng Dục nằm dưới bàn tay của cụ Mết. Và những thanh niên, tất cả những thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng bóng, những cây rựa mài từ đá Tnú mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về…
Tiếng anh Prôi nói, nghiêm túc:
- Tnú! Tnú! Anh tỉnh chưa? Đây này, chúng tôi đã giết hết rồi. Cả mười đứa, đây này! Bằng giáo, bằng giáo mác. Đây này!
Lửa đã dập tắt trên mười ngón tay Tnú. Nhưng đống lửa lớn giữa nhà vẫn đỏ, xác mười tên lính giặc đầy xung quanh đống lửa đỏ.
Cụ Mết đặt giáo xuống sàn nhà, tiếng nói vang vọng:
- Bắt đầu thôi! Đốt lửa lên! Mọi người, từ già đến trẻ, nam nữ, mỗi người phải tìm một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì lấy chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên!
Tiếng chuông vang lên…
Đứng trên đồi xà nu gần con suối lớn, suốt đêm nghe cả rừng Xô Man râm ran. Và lửa cháy khắp rừng…
Không ai nhận ra rằng đêm đã khuya. Mưa càng trở nặng hạt.
Cụ Mết nhìn lên nhìn xuống mọi người. Râu của ông run run.
- Đây, tôi kể xong rồi. Làng Xô Man đã cầm giáo từ đêm đó. Tnú cũng ra đi từ đó. Mười ngón tay còn lại rồi nó ra đi. Mười ngón tay, mỗi ngón một mất một. Tnú đi theo đuổi cách mạng. Nghe đồn bên kia núi Ngọc Linh cũng có thằng Dục, bên đó đã nổi dậy. Làng gửi nó đi tìm. Nó đi từ đó đến giờ… Cha mẹ của mày, đi xa quá! Để cho những đứa con gái của chúng nó lớn lên mà không còn thanh niên nào để chúng nó kết hôn!… Đủ rồi, tôi kể hết rồi đây. Giờ là lượt của mày. Ba năm mày đi, mày đã làm gì xấu hổ cho làng Xô Man này, kể cho bà con đây nghe. Mày đã làm những gì, con? Đã giết bao nhiêu thằng Diệm, thằng Mỹ chưa?
Tnú đứng dậy. Anh bước đến trước lửa bếp, đứng im lặng một lúc. Biết phải nói gì đây. Trái tim anh đầy ắp tình yêu thương. Anh nói:
- Cụ Mết! Đồng bào! Tôi… ừ, tôi đã gặp thằng Dục rồi…
- Thằng Dục à? Nó ở đâu?
- Nó đang ở tại đâu vậy?
- Mày đã loại bỏ nó chưa?
- Đã xong việc.
- Ồ, cái giết mày sử dụng đó à?
- Không, tôi đã từ chối.
- Có chuyện gì vậy?
Tnú nhẹ nhàng tháo khẩu súng trên vai xuống, đặt nó qua một bên.
- Đây là tình hình. Trong trận đánh đó, tôi đã tiêu diệt hết lính của chúng.
- Sạch sẽ à?
- Sạch sẽ. Chỉ còn mỗi thằng chỉ huy ở dưới hầm. Tôi kêu hắn lên nhưng hắn không đáp. Khi tôi ném lựu đạn vào, hắn đã ngáp ra. Tôi tìm thấy hắn trong bóng tối. Hắn bắn. Tôi lấy được súng của hắn. Hắn cố đẩy tôi nhưng tôi mạnh hơn. Tôi đè gối vào ngực hắn. Tôi bật đèn pin về phía mặt hắn:
- Dục, nhớ tao không?
Nó lắc đầu. Ồ, đây này, hai bàn tay của tao, nhớ không? Tao vẫn cầm được súng đây, tao có cả dao găm đây. Nhưng tao không giết mày bằng súng, tao không đâm mày bằng dao đâu. Dục ơi! Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày!
Dít hỏi bình thản:
- Mất rồi à?
- Mất rồi.
- Nhưng có phải là Dục không?
- Chính xác đấy… Tất cả đều gọi là Dục ấy mà.
Cụ Mết cũng đứng lên, cụ đặt bàn tay nặng nề như sắt lên vai Tnú:
- Đúng vậy! Hà hà…
Theo tiếng cười của ông cụ, tiếng cười ồn ào lan tỏa khắp căn nhà nhỏ.
Đại bác từ phía đồn giặc nổ vào khu rừng xà nu bên bờ của con dòng lớn, nhưng không ai nghe thấy, tiếng súng bị vượt qua bởi tiếng nói.
Tnú lại rời đi. Cụ Mết và Dít dẫn anh ta ra gần khu rừng xà nu bên bờ của con dòng lớn. Trận đại bác đêm qua đã làm đổ bốn cây xà nu lớn. Nhựa cây chảy ra từ những vết thương vẫn còn đọng lại, lấp lánh dưới ánh nắng hè. Xung quanh đó là vô số cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú từ đất, nhọn như mũi lê.
Ba người đứng ở đó nhìn ra xa. Nhưng ngay cả khi hút cả tầm mắt, họ cũng không thấy gì ngoài những rừng xà nu trải dài vô tận đến chân trời.
1965
I. Một số điểm về tác giả Nguyễn Trung Thành
- Nguyễn Trung Thành (còn được biết đến với bút danh Nguyên Ngọc) sinh ra với tên Nguyễn Văn Báu vào năm 1932.
- Quê gốc của ông là huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
- Năm 1950, ông gia nhập quân đội và sau đó làm phóng viên cho báo Quân đội nhân dân tại Liên khu V. Thời gian gắn bó trong cuộc kháng chiến chống Pháp tại Liên khu V đã giúp ông hiểu rõ về vùng Tây Nguyên.
- Sau năm 1954, ông tham gia nhiều hoạt động sáng tác nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc.
- Năm 1962, ông tự nguyện trở lại miền Nam và tham gia hoạt động tại Quảng Nam và Tây Nguyên.
- Nguyễn Trung Thành từng là Ủy viên Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam và là Tổng biên tập của báo Văn nghệ.
- Một số tác phẩm tiêu biểu:
- Đất nước đứng lên (tiểu thuyết đầu tay được trao giải Nhất - Giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954 - 1955)
- Rẻo cao (tập truyện, 1961)
- Trên quê hương những anh hùng hiện ngọc (tập truyện và ký, 1969)
- Đất Quảng (tiểu thuyết, 1971 - 1974)
II. Giới thiệu về tác phẩm ngắn Rừng xà nu
1. Bối cảnh sáng tác
- Truyện được viết vào năm 1965 và xuất bản lần đầu trên số 2/1965 của Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng miền Trung Trung Bộ.
- Sau đó, truyện được đăng trong tập sách Trên quê hương những anh hùng hiện ngọc (1969).
- Đây là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyên Ngọc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
2. Cấu trúc
Bao gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.”: Rừng xà nu - biểu tượng của dân làng Xô Man.
- Phần 2. Tiếp theo đến “Hà hà… được!”: Tnú sau ba năm đi lực lượng trở về thăm làng.
- Phần 3. Còn lại: Cụ Mết kể lại cuộc đời bi tráng của Tnú và cuộc đấu tranh của dân làng Xô Man.
3. Tóm tắt
Mẫu 1
Sau ba năm làm nhiệm vụ, Tnú cuối cùng cũng trở về thăm làng. Heng, cậu bé Tnú gặp ở con sông lớn, đã dẫn anh ta trở về. Con đường quen thuộc giờ đây đã đầy chông gai và nguy hiểm, nếu không có ai dẫn dắt, Tnú không dám đi một mình. Khi đến làng, cụ Mết và cư dân đều hân hoan chào đón anh. Buổi tối, một tiếng chuông từ nhà thờ vang lên, và lũ dân làng đều mang theo đuốc để đến gặp Tnú tại nhà cụ Mết. Dít yêu cầu Tnú trình giấy phép. Mọi người đều tiếc nuối vì Tnú chỉ có một đêm để ở lại làng. Sau đó, cụ Mết kể lại câu chuyện đời của Tnú cho mọi người nghe. Dân làng Xô Man tự hào về việc trong năm năm qua, không có bất kỳ cán bộ nào bị giặc bắt. Anh Xút bị treo cổ, bà Nhan bị chặt đầu, Tnú và Mai đã đi vào rừng nuôi anh Quyết, một cán bộ. Anh đã dạy Tnú và Mai học chữ. Tnú dễ quên khi học chữ, nhưng khi đi rừng liên lạc thì tinh thần anh sáng sủa. Anh vượt qua thác, xé bỏ rừng, và thoát khỏi vòng vây của giặc. Một lần, khi Tnú vượt qua thác Đắk Nông, anh bị giặc bắt và tra tấn dã man. Khi bị hỏi về địa điểm của cộng sản, Tnú chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở đây này”. Ba năm sau đó, Tnú trốn khỏi nhà tù và trở về. Anh mang trên mình những vết thương nặng. Tnú đọc thư mà anh Quyết gửi cho dân làng Xô Man trước khi qua đời. Nghe lời của anh, mọi người chuẩn bị cho trận chiến. Mỗi đêm, làng Xô Man đều trực cao thấp vũ khí. Khi đội giặc tiến về, đứa con đầu lòng của Mai và Tnú cũng chào đời. Cụ Mết và những người đàn ông trong làng đã bí mật theo dõi giặc. Họ giết thằng Dục đúng lúc. Cuộc sống của Tnú chứng minh câu nói: “Kẻ nào cầm súng sẽ bị giáo đánh lại” mà cụ Mết thường nói. Cụ Mết dừng lại, sau đó hỏi Tnú về số lượng giặc mà anh đã hạ gục trong thời gian làm nhiệm vụ. Anh kể lại câu chuyện đánh phá đồn, xông vào hầm và bóp chết thằng chỉ huy. Đối với anh, mọi thằng giặc đều là thằng Dục. Sáng hôm sau, cụ Mết và Dít tiễn Tnú ra đi. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu kéo dài vô tận…
Mẫu 2
Tnú quay về thăm làng sau ba năm phục vụ trong quân đội. Anh gặp Heng, cậu bé từng gặp ở con sông lớn. Con đường quen thuộc giờ đây đã trở nên nguy hiểm, đầy hầm chông và hố chông. Nếu không có ai dẫn dắt, Tnú không thể đi qua một mình. Khi đến làng, cả cụ Mết và dân làng đều rất mừng rỡ và chào đón anh. Buổi tối, mọi người kéo tới nhà cụ Mết để gặp Tnú. Dít, cô bé từng nhỏ nay đã trở thành bí thư chi bộ và chính trị viên xã hội, yêu cầu Tnú xuất trình giấy phép. Dân làng tiếc nuối vì Tnú chỉ được phép ở lại một đêm. Sau đó, cụ Mết kể lại cuộc đời của Tnú cho mọi người nghe. Xưa kia, làng Xô Man luôn tích cực trong phong trào cách mạng. Nhiều người như anh Xút bị treo cổ, bà Nhan bị chặt đầu vì bị giặc phát hiện nuôi giấu cán bộ cách mạng. Lúc đó, Tnú và Mai còn nhỏ nhưng đã rất dũng cảm. Cả hai đã tham gia vào việc nuôi anh Quyết cán bộ trong rừng. Tnú và Mai được cán bộ dạy học chữ. Tnú học chữ thì hay quên nhưng đi rừng làm liên lạc thì khá thông minh. Nhiều lần, anh đã thoát khỏi vòng vây của giặc. Ba năm sau đó, Tnú trốn khỏi nhà tù và trở về. Anh Quyết trước khi hy sinh đã gửi thư cho dân làng Xô Man trước khi qua đời. Nghe lời anh, mọi người chuẩn bị cho trận chiến. Mỗi đêm, làng Xô Man đều thức trắng mài vũ khí. Khi đội giặc tiến về, đứa con đầu lòng của Tnú và Mai cũng chào đời. Cụ Mết và những người đàn ông trong làng đã bí mật theo dõi giặc. Họ giết thằng Dục đúng lúc. Cuộc sống của Tnú là minh chứng cho câu nói: “Kẻ nào cầm súng sẽ bị giáo đánh lại” mà cụ Mết thường nói. Cụ Mết hỏi Tnú những năm đi lực lượng đã giết được bao nhiêu thằng Diệm, bao nhiêu thằng Mỹ. Anh kể lại chuyện đánh đồn, xông xuống hầm và bóp chết thằng chỉ huy. Đối với anh, mọi thằng giặc đều là thằng Dục. Ngày hôm sau, cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu kéo dài vô tận…
4. Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề “Rừng xà nu” trước hết gợi lên hình ảnh trung tâm của tác phẩm, đó là những cây xà nu. Hình ảnh “rừng xà nu” không chỉ là một tả thực mà còn là biểu tượng. Về mặt tả thực, xà nu là loại cây phổ biến ở Tây Nguyên, có nhiều ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày của người dân như làm củi, làm đuốc, và xông bảng nứa. Về mặt biểu tượng, rừng xà nu trở thành một nhân vật tham gia vào toàn bộ câu chuyện, đồng thời chứng kiến những sự kiện quan trọng của dân làng Xô Man. Xà nu cũng tượng trưng cho phẩm chất của con người Tây Nguyên - kiên cường, gan dạ và tràn đầy sức sống.
=> Nhan đề này thể hiện được tư tưởng sâu sắc mà nhà văn Nguyễn Trung Thành muốn truyền đạt.
5. Nội dung
Nguyễn Trung Thành đã thông qua câu chuyện về cuộc sống của những người dân trong một bản làng xa xôi để đặt ra một vấn đề quan trọng về sự sống còn của dân tộc. Để đất nước và nhân dân mãi mãi tồn tại, không có lựa chọn nào khác ngoài việc cùng nhau đứng lên, nắm vũ khí chống lại kẻ thù.
6. Nghệ thuật
- Diễn văn tinh tế, phong phú hình ảnh
- Việc xây dựng nhân vật rất thành công
- Hình ảnh mang tính biểu tượng: cây xà nu, đôi bàn tay của Tnú…
III. Dàn ý phân tích Rừng xà nu
(1) Mở đầu
Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Trung Thành, tác phẩm Rừng xà nu và tóm tắt nội dung chính của tác phẩm.
(2) Phần chính
a. Nhân vật Tnú
- Tnú mất cha mẹ từ khi còn nhỏ, được dân làng Xô Man chăm sóc và bảo vệ.
=> Tnú là đứa con của cả làng Xô Man.
- Trong tuổi thơ:
- Tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng.
- Học chữ nhưng thường dùng đá đập vào đầu để nhớ những điều quan trọng.
- Khi bị kẻ thù bắt, ắp tay vào bụng trả lời: “Cộng sản ở đây này”.
=> Tuổi thơ rực rỡ chiến công, kỳ tích, là tuổi thơ của một anh hùng nhỏ.
- Trong đời trưởng thành: Tnú vượt ngục trở về để dẫn dắt dân làng chống lại Mỹ - Diệm
- Khi Mai và đứa con bị bắt và bị tra tấn dã man, Tnú tạm gác nỗi đau riêng để hy sinh cho cách mạng. Anh đặt lợi ích cá nhân sau lợi ích của cách mạng, vì tổ quốc hơn tất cả.
- Khi con mất, anh lao ra giải cứu mẹ con Mai, chứng tỏ bản tính người chồng, người cha chân thành.
- Hình ảnh mười đầu ngón tay bị nhựa xà nu thiêu cháy là minh chứng cho lời dạy: “Chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”.
=> Sống và chết của Tnú đồng nghĩa với số phận của dân làng Xô Man: khổ đau nhưng vẫn kiên cường và dũng cảm.
b. Cư dân Xô Man
- Cụ Mết: người già trưởng làng, biểu tượng cho thế hệ đầu tiên của dân Tây Nguyên, là người lưu truyền lịch sử.
- Bà Nhan, anh Xút đã ra đi, nhưng Mai, Tnú, Dít lên tiếp, cùng với bé Heng: thế hệ kế tiếp của người con Tây Nguyên liên tục tham gia vào cuộc cách mạng.
c. Biểu tượng cây xà nu
- Là loài cây phổ biến trên đất Tây Nguyên, đặc biệt là ở làng Xô Man.
- Biểu tượng cho phẩm chất và sức mạnh của người Tây Nguyên:
- Rừng xà nu đau khổ như con người Tây Nguyên đau khổ.
- Sức sống mạnh mẽ của rừng xà nu tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ của người Tây Nguyên và cả dân tộc Việt Nam.
- Cây xà nu không khuất phục dưới bóng râm, luôn vươn lên tìm ánh sáng mặt trời, biểu tượng cho lòng tự do, ý chí mạnh mẽ và khát vọng vươn lên của người Tây Nguyên.
- Dãy cây xà nu nối tiếp nhau trên cả nền đất tượng trưng cho các thế hệ người Tây Nguyên liên tục đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.
(3). Tổng kết
Tóm tắt giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Rừng xà nu.