


Rúp (hoặc đồng rúp Nga: рубль, IPA: [rublʲ]) là đơn vị tiền tệ của nhiều quốc gia Đông Âu liên quan đến nền kinh tế Nga. Được sử dụng từ thời Hoàng đế Nga và Liên Xô (như Rúp Xô viết), hiện nay là tiền tệ của Nga (rúp Nga) và Belarus (đồng Rúp Belarus). Rúp Nga cũng phổ biến ở Abkhazia và Nam Ossetia, và một số quốc gia khác chịu ảnh hưởng của Nga và Liên Xô trước đây. Một đồng rúp được chia thành 100 kopeks (Nga: копе́йка, chuyển tự. kopeyka, IPA: [kɐˈpʲejkə]).
Nguồn gốc
Có một lý thuyết cho rằng từ 'rúp' bắt nguồn từ động từ tiếng Nga рубить (rubit), có nghĩa là 'cắt', vì đồng rúp được xem như là một phần cắt ra từ một grivna bạc.
Rúp từng là một phần của grivna hoặc mảnh bạc, với trọng lượng được đánh dấu bằng các bậc xì. Mỗi grivna được chia thành bốn phần, và tên 'rúp' xuất phát từ hành động 'cắt', vì thanh bạc nặng 1 grivna được chia thành bốn phần gọi là rúp.
Lịch sử
Rúp hoàng gia (thế kỷ 14 – 1917)

Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, rúp không phải là tiền tệ mà là đơn vị trọng lượng. Đồng tiền phổ biến nhất là denga (số nhiều Dengi), với hai loại đúc tại Novgorod và Moskva. Trọng lượng của denga không ổn định, nhưng đến năm 1535, denga Novgorod nặng 0,68 gram (0,022 ounce troy), và denga Moskva bằng một nửa denga Novgorod. Do đó, một rúp tài khoản bao gồm 100 denga Novgorod hoặc 200 denga Moskva (68 g bạc). Denga Novgorod có hình tay đua với giáo (tiếng Nga: копьё, chuyển tựkop'yo) và sau này gọi là kopek. Vào thế kỷ 17, trọng lượng của kopek giảm xuống 0,48 g (0,015 oz), nên một rúp tương đương 48 g bạc.

Trong giai đoạn 1654–1655, hoàng đế Alexis đã cố gắng thực hiện cải cách tiền tệ bằng cách yêu cầu sản xuất đồng rúp từ các đồng joachimsthalers nhập khẩu và đồng kopek mới từ đồng (những đồng kopek bạc cũ vẫn lưu hành). Mặc dù khoảng 1 triệu rúp được sản xuất, trọng lượng thấp hơn (28-32 gram) so với rúp danh nghĩa (48 g) dẫn đến tình trạng giả mạo, đầu cơ và lạm phát. Sau cuộc khủng hoảng đồng năm 1662, hệ thống tiền tệ mới bị từ bỏ và trở về hệ thống cũ.
Đế quốc Nga
Năm 1704, Pyotr Đại đế đã thực hiện cải cách hệ thống tiền tệ của Nga, cho đúc đồng rúp bạc nặng 28 gram (0,99 ounce), tương đương với 100 đồng kopek mới, khiến đồng rúp trở thành đồng tiền thập phân đầu tiên trên thế giới.
Lượng kim loại quý trong đồng rúp đã thay đổi theo thời gian. Trong cuộc cải cách tiền tệ năm 1704, Pyotr Đại đế chuẩn hóa đồng rúp thành 28 gram bạc. Ngoài bạc, có các mệnh giá cao hơn được đúc từ vàng và bạch kim. Vào cuối thế kỷ 18, đồng rúp được quy định là 4 zolotnik 21 dolya (khoảng 18 gram) bạc tinh khiết hoặc 27 dolya (khoảng 1,2 gram) vàng tinh khiết, với tỷ lệ 15:1 giữa hai kim loại. Năm 1828, đồng bạch kim được giới thiệu với 1 rúp tương đương với 77⅔ dolya (3,451 gram).
Ngày 17 tháng 12 năm 1885, một tiêu chuẩn mới được thông qua, không thay đổi đồng rúp bạc nhưng giảm hàm lượng vàng xuống còn 1,161 gram, và gắn đồng rúp vàng với đồng franc Pháp với tỷ lệ 1 rúp = 4 franc. Tỷ lệ này sau đó được sửa đổi vào năm 1897 thành 1 rúp = 2⅔ franc (0,774 gram vàng).
Vào năm 1914, đồng rúp có giá trị khoảng 0,50 USD.
Với sự bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ nhất, tiêu chuẩn vàng được giảm và đồng rúp mất giá, dẫn đến lạm phát đầu những năm 1920. Khi Liên Xô được thành lập năm 1922, đồng rúp Nga được thay thế bằng đồng rúp của Liên Xô. Chervonetz, tiền tệ trước cách mạng, tạm thời được đưa trở lại lưu hành từ 1922-1925.
Tiền xu của Nga

Đầu thế kỷ 19, tiền xu bằng đồng được phát hành với các mệnh giá ⁄4, ⁄2, 1, 2 và 5 kopeks, bạc 5, 10, 25, 50 kopeks, và 1 đồng rúp, cùng với vàng 5 rúp. Tuy nhiên, sản xuất đồng 10 rúp đã ngừng vào năm 1806. Vào năm 1820, bạc 20 kopeks được giới thiệu, tiếp theo là đồng 10 kopeks từ 1830 đến 1839, và đồng 3 kopeks vào năm 1840. Từ 1828 đến 1845, bạch kim 3, 6 và 12 rúp được phát hành. Năm 1860, bạc 15 kopeks được phát hành do mệnh giá này (bằng 1 złoty) phổ biến ở Ba Lan, và năm 1869, vàng 3 rúp được giới thiệu. Năm 1886, tiền vàng 5 và 10 rúp mới được phát hành, tiếp theo là một loại vào năm 1897. Ngoài 5 và 10 rúp nhỏ, cũng có đồng 7⁄2 và 15 rúp được phát hành trong cùng năm, tương đương kích thước với đồng 5 đến 10 rúp trước đó. Tiền vàng bị ngừng phát hành vào năm 1911, trong khi các mệnh giá khác vẫn được sản xuất cho đến Thế chiến thứ nhất.
Rúp Constantine
Rúp Constantine (tiếng Nga: константиновский рубль, chuyển tựkonstantinovsky rubl) là một đồng bạc hiếm của Đế quốc Nga mang tên Constantine, anh trai của các hoàng đế Aleksandr I và Nikolai I. Đồng tiền này được chuẩn bị để sản xuất tại Sankt Peterburg Mint trong khoảng thời gian ngắn năm 1825, nhưng không bao giờ được đúc với số lượng lớn và chưa bao giờ được lưu hành công khai. Sự tồn tại của nó chỉ được biết đến từ năm 1857 qua các ấn phẩm nước ngoài.
Tiền giấy
Vấn đề liên quan đến Hoàng đế


Các vấn đề của Chính phủ Tạm thời
Năm 1917, Chính phủ lâm thời phát hành tiền kho bạc với mệnh giá 20 và 40 rúp, thường được gọi là 'Kerenski' hoặc 'Kerensky rúp'. Chính phủ này cũng phát hành các ghi chú tín dụng 25 và 1.000 rúp được in tại Hoa Kỳ, nhưng phần lớn không được lưu hành.
Đồng rúp của Liên Xô (1917–1992)
Đồng rúp của Liên Xô, mã SUR, thay thế đồng rúp của Đế quốc Nga và là tiền tệ của Liên Xô từ năm 1917 đến khi Liên bang Xô viết sụp đổ vào năm 1991. Đồng rúp này được Ngân hàng Nhà nước Liên bang phát hành và tiếp tục được sử dụng ở 15 nước cộng hòa Xô viết.
Đồng rúp của Liên Xô được sử dụng đến năm 1992 ở Nga (thay thế bởi đồng rúp Nga), Ukraina (thay thế bởi karbovanets Ukraina), Estonia (thay thế bởi kroon Estonia), Latvia (thay thế bởi đồng rúp Latvia), Litva (thay thế bởi talonas Litva), và cho đến năm 1993 tại Belarus (thay thế bởi đồng rúp Belarus), Georgia (thay thế bởi lari Gruzia), Armenia (thay thế bởi dram Armenia), Kazakhstan (thay thế bởi tenge Kazakhstan), Kyrgyzstan (thay thế bởi som Kyrgyzstan), Moldova (thay thế bởi cupon Moldova), Turkmenistan (thay thế bởi manat Turkmenistan), Uzbekistan (thay thế bởi cupon Uzbekistan), và cho đến năm 1994 ở Azerbaijan (thay thế bởi manat Azerbaijan) và năm 1995 ở Tajikistan (thay thế bởi đồng rúp Tajikistan).
- Rúp Nga
- Rúp Liên Xô
