Sa la | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn | |
Ít quan tâm (IUCN 2.3) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Rosids |
Bộ (ordo) | Malvales |
Họ (familia
| Dipterocarpaceae |
Chi (genus) | Shorea |
Loài (species) | S. robusta |
Danh pháp hai phần | |
Shorea robusta Gaertn., 1805 | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Cây Sala (Danh pháp khoa học: Shorea robusta) là một loài thực vật có hoa trong họ Dầu. Loài này được Gaertn. miêu tả khoa học đầu tiên vào năm 1805. Theo truyền thuyết Phật giáo, Hoàng hậu Māyā của Sakya đã sinh ra Gautama Buddha dưới gốc cây Sala. Theo phong tục, hoàng hậu phải trở về quê nhà để sinh con. Trên đường về, bà rời kiệu và đi bộ dưới bóng cây Sala, trong khu vườn hoa rực rỡ ở vườn Lâm-Tỳ-Ni, Nepal. Hoàng hậu Maya rất thích khu vườn và hạ sinh hoàng tử khi đang đứng dưới bóng cây Sala.
Phân bố
Loài cây này là loài bản địa của Tiểu lục địa Ấn Độ, nằm ở phía nam dãy Himalaya, từ Myanmar về phía đông đến Nepal, Ấn Độ và Bangladesh. Tại Ấn Độ, cây này phân bố từ Assam, Bengal, Orissa và Jharkhand về phía tây đến đồi Shivalik ở Haryana, phía đông của sông Yamuna. Phạm vi phân bố cũng mở rộng qua dãy núi Ghats Đông và đến phía đông của Vindhya và Satpura ở miền trung Ấn Độ. Đây thường là loài cây chiếm ưu thế trong các khu rừng nơi nó phát triển. Ở Nepal, cây này chủ yếu được tìm thấy ở khu vực terai từ đông sang tây, đặc biệt là trong dãy Churia (vùng Shivalik của Churia) với khí hậu cận nhiệt đới. Có nhiều khu vực được bảo vệ, chẳng hạn như vườn quốc gia Chitwan, vườn quốc gia Bardiya, vườn quốc gia Shuklaphanta, vv., nơi có những khu rừng rậm rạp và lớn lao. Loài cây này cũng được tìm thấy ở vùng đồi núi và terai dưới trong vùng đất Ấn Độ.
Miêu tả
Sal phát triển với tốc độ từ trung bình đến chậm và có thể đạt chiều cao từ 30 đến 35 m, đường kính thân lên đến 2-2,5 m. Lá dài từ 10 đến 25 cm và rộng từ 5 đến 15 cm. Ở những khu vực ẩm ướt hơn, nó là loài cây thường xanh; còn ở những vùng khô hơn, lá của nó rụng vào mùa khô, thường là vào giữa tháng Hai đến tháng Tư và mọc lại vào tháng Tư và tháng Năm.
Tôn giáo
Theo truyền thống Hindu, cây sala được cho là được ưa chuộng bởi Vishnu.
Nhầm lẫn
Tại châu Á, cây sa la thường bị nhầm lẫn với cây đầu lân (Couroupita guianensis), một loài cây từ vùng nhiệt đới Nam Mỹ đã được người Anh du nhập vào châu Á từ thế kỷ 19. Kể từ đó, cây đầu lân được trồng tại các địa điểm tôn giáo Phật giáo và Ấn Độ giáo ở châu Á với niềm tin rằng nó là cây xuất hiện trong kinh Phật. Tại Sri Lanka, Thái Lan và các quốc gia có đạo Phật cổ, loài cây này đã được trồng tại các chùa Phật giáo và các địa điểm tôn giáo khác. Ở Ấn Độ, cây đầu lân còn được trồng tại các đền thờ của Shiva và được gọi là Shiv Kamal hoặc Nagalingam vì hoa của nó được cho là giống như mũ trùm đầu của thần Naga, người bảo vệ thần Shiva. Một ví dụ về sự nhầm lẫn khi gọi đầu lân là 'cây sala' xảy ra tại chùa trong Cung điện Hoàng gia Campuchia ở Phnôm Pênh, Campuchia.
Ở Thái Lan, hầu hết người dân gọi cả cây đầu lân và cây sala bằng tên chung là sala. Bên cạnh đó, cây sala cũng thường bị nhầm lẫn với cây vô ưu (Saraca asoca), thuộc chi Saraca.
Hình ảnh
- Yakshini
- Vô ưu
- Đầu lân
Chú thích
- Ashton (1998). Shorea robusta. Sách đỏ 2006. IUCN 2006. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2006.
- Haryana Online: Sal Lưu trữ 2007-09-27 tại Wayback Machine
Liên kết bên ngoài
- Dữ liệu liên quan đến Sa la tại Wikispecies
- Tài liệu liên quan đến Shorea robusta tại Wikimedia Commons
- Vườn thực vật hoàng gia Kew; Đại học Harvard; Australian Plant Name Index (biên tập). “Shorea robusta”. International Plant Names Index.