Sahara (الصحراء الكبرى) | |
Đại Sa mạc | |
Hoang mạc | |
Sahara
| |
Các quốc gia | Algérie, Chad, Ai Cập, Eritrea, Libya, Mali, Mauritanie, Maroc, Niger, Sudan, Tunisia, Tây Sahara |
---|---|
Điểm cao nhất | Emi Koussi 11.204 ft (3.415 m) |
- tọa độ | |
Điểm thấp nhất | Đất trũng Qattara −436 ft (−133 m) |
- Tọa độ | |
Chiều dài | 4.800 km (2.983 mi), E/W |
Chiều rộng | 1.800 km (1.118 mi), N/S |
Diện tích | 9.400.000 km (3.629.360 dặm vuông Anh) |
Hoang mạc | |
Sahara (tiếng Ả Rập: الصحراء الكبرى, aṣ-Ṣaḥrāʾ al-Kubrā , nghĩa là sa mạc lớn) là sa mạc lớn nhất trên Trái Đất, là hoang mạc lớn thứ 3 trên Trái Đất (sau Châu Nam Cực và Bắc Cực), với diện tích hơn 9.000.000 km², xấp xỉ diện tích của Hoa Kỳ và Trung Quốc. Sahara ở phía bắc châu Phi và có tới 2,5 triệu năm tuổi.
Tổng quan
Được bao bọc bởi biển Đại Tây Dương ở phía Tây, dãy núi Atlas và Địa Trung Hải ở phía Bắc, Biển Đỏ (Hồng Hải) và Ai Cập ở phía Đông; Sudan và thung lũng sông Niger ở phía Nam. Điểm cao nhất trong sa mạc là đỉnh núi Emi Koussi với độ cao 3415 m so với mực nước biển, thuộc dãy núi Tibesti phía Bắc nước Tchad.
Trong thời kỳ băng hà, Sahara đã từng ẩm ướt hơn nhiều so với hiện tại và có nhiều loài động, thực vật sống ở đây. Tuy nhiên, ngày nay, chỉ có thung lũng sông Nin và một số khu vực như cao nguyên phía Bắc gần Địa Trung Hải có thể trồng được rau và cây ôliu, còn lại phần lớn vùng này không thể canh tác được.
Với diện tích bằng Hoa Kỳ nhưng chỉ có 2,5 triệu người sinh sống. Đa số tập trung ở Ai Cập, Mauritania, Morocco và Algeria. Các dân tộc chính gồm Tuareg, người Arab, và các nhóm da đen như Tubu, Nubians, Zaghawa, Kanuri, Peul hay Fulani, Hausa và Songhai.
Thủ đô lớn nhất là Cairo, của Ai Cập, nằm ở thung lũng sông Nin. Các thành phố quan trọng khác gồm Nouakchott, thủ đô của Mauritania; Tamanrasset, Algeria; Timbuktu, Mali; Agadez, Niger; Ghat, Libya; và Faya, Chad.
Lịch sử khí hậu
Khí hậu Sahara đã trải qua những biến đổi lớn từ thời kỳ ẩm ướt đến khô hanh trong hàng trăm nghìn năm qua. Trong kỷ băng hà cuối cùng, Sahara rộng hơn và kéo dài xa hơn về phía nam so với ngày nay. Sau khi kỷ băng hà kết thúc, Sahara trở nên ẩm ướt hơn từ khoảng 8000 TCN đến 6000 TCN, có thể do sự sụp đổ của các vùng áp suất thấp trên các phiến băng ở phía bắc.
Khi các phiến băng tan chảy, vùng phía bắc Sahara bắt đầu trở nên khô hơn. Tuy nhiên, sau khi phiến băng tan chảy xong, gió mùa mang mưa tới vùng Sahel lan rộng hơn về phía bắc và đối đầu với khô hanh ở phía nam Sahara. Gió mùa ở châu Phi và những vùng khác xuất hiện do sự nóng mùa hè. Không khí lục địa trở nên nóng hơn và tăng lên, kéo không khí ẩm và lạnh từ biển vào. Hiện tượng này dẫn đến mưa. Do đó, mặc dù có vẻ mâu thuẫn, Sahara từng ẩm hơn khi nhận nhiều ánh nắng hè. Ngược lại, các thay đổi trong hấp thu nhiệt từ Mặt trời là kết quả của sự thay đổi trong các tham số quỹ đạo của Trái Đất.
Đến khoảng năm 2500 TCN, gió mùa đã rút về phía nam gần vị trí hiện tại, dẫn đến sự biến đổi thành sa mạc của Sahara. Sahara ngày nay khô như thời kỳ trước khi nó từng có cách đây khoảng 13.000 năm.
Lịch sử
Giai đoạn chăn nuôi
Vào năm 6000 TCN, các vương quốc tiền pharaonic ở vùng phía tây nam Ai Cập đã biết cách chăn nuôi gia súc và xây dựng những ngôi nhà lớn. Cuộc sống tại các khu định cư cố định và có tổ chức trong xã hội tiền pharaonic ở giữa thiên niên kỷ thứ 6 TCN tập trung chủ yếu vào nông nghiệp: trồng lúa, chăn nuôi gia súc như bê, dê, lợn và cừu. Công cụ kim loại thay thế cho công cụ đá đã xuất hiện. Thời kỳ này cũng chứng kiến sự phát triển của gốm sứ và dệt may. Có những dấu hiệu cho thấy sự chiếm đóng tạm thời của Al Fayyum trong thiên niên kỷ thứ 6 TCN, với các hoạt động săn bắn, câu cá và hái lượm là chủ yếu. Công cụ như mũi tên, dao và scraper đá được sử dụng phổ biến. Các vật dụng như bình, trang sức, dụng cụ nông nghiệp và săn bắn cũng được sử dụng trong nghi lễ mai táng, cùng với các loại thực phẩm như thịt khô và trái cây. Người chết được chôn với hướng mặt về phía tây.
Giai đoạn Berber
Người Phoenicia đã thành lập một liên minh các vương quốc từ Sahara đi tới Ai Cập, nơi mà hầu hết các vương quốc này nằm ven biển nhưng cũng có một số nằm sâu trong sa mạc.
Vào năm 2500 TCN, Sahara đã trở thành sa mạc khô như hiện nay và trở thành một rào cản không thể xâm nhập đối với con người, chỉ có một vài khu định cư rải rác xung quanh các ốc đảo, và thương mại qua sa mạc hầu như chưa có. Một trong những ngoại lệ là Thung lũng sông Nin, nhưng các thác nước tại đây đã làm cho thương mại và giao lưu khó khăn.
Vào một thời điểm nào đó giữa năm 633 và 530 TCN, Hanno, một thủy thủ nổi tiếng, đã thiết lập hoặc tăng cường các thuộc địa của Phoenicia ở phía Tây Sahara, nhưng mọi dấu vết về quá khứ đã biến mất và không còn gì để lưu lại. Xem Lịch sử Tây Sahara.
Hy Lạp
Vào năm 500 TCN, sự ảnh hưởng từ Hy Lạp và Phoenicia đã lan rộng đến khu vực này. Các thương gia Hy Lạp đi dọc theo bờ biển phía đông sa mạc, thành lập các vùng buôn bán dọc theo bờ Biển Đỏ. Người Carthaginia đã khám phá bờ biển Đại Tây Dương của sa mạc. Do thiếu nước và thị trường, con người chưa bao giờ tiến về phía nam Maroc hiện nay. Do đó, các quốc gia ở phía bắc và phía đông sa mạc vẫn nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Những cuộc chinh phục của người Berber vào sa mạc luôn làm người dân sống ở biên giới lo ngại.
Nền văn minh đô thị
Một nền văn minh đô thị, Garamantes, đã phát triển trong thung lũng Wadi al-Ajal tại Fazzan, Libya. Garamantes sử dụng các hệ thống kênh đào để đưa nước từ các sườn thung lũng lên đến các cánh đồng. Họ trở nên mạnh mẽ và giàu có, chinh phục các vùng lân cận và sử dụng nô lệ để mở rộng hệ thống kênh đào của mình. Người Hy Lạp và La Mã đã biết về Garamantes và duy trì mối buôn bán với họ, nhưng chỉ có một số nghiên cứu gần đây mới phát hiện được bồn tắm La Mã tại thủ đô Garama của họ. Các nhà khảo cổ học đã khám phá tám thành phố lớn và các khu định cư quan trọng khác trong vương quốc Garamantes. Nền văn minh này sụp đổ sau khi không còn khai thác được nước ngầm dưới đất để mở rộng hệ thống kênh đào.
Người Ả Rập
Sự thay đổi lớn nhất trong lịch sử Sahara đến từ sự chinh phục của người Ả Rập, khi họ đưa lạc đà vào khu vực này và thiết lập một mạng lưới thương mại xuyên sa mạc hiệu quả. Các đế quốc Sahel như Ghana và Mali sau đó trở nên giàu có nhờ xuất khẩu vàng và muối sang Bắc Phi. Các tiểu vương quốc ven Địa Trung Hải đã đưa hàng hóa và ngựa xuống phía nam, và Sahara trở thành trung tâm thương mại quan trọng dưới sự kiểm soát của các đế quốc sa mạc.
Hệ thống thương mại này đã tồn tại suốt hàng thế kỷ cho đến khi sự phát triển kỹ thuật hàng hải từ châu Âu cho phép các tàu thăm dò tài nguyên ở Guinea, khiến Sahara dần trở nên cô lập trở lại.
Các thế lực thuộc địa trước đây không chú ý nhiều đến khu vực Sahara, nhưng trong thời đại hiện đại, đã có sự phát triển mỏ và cộng đồng dân cư để khai thác các tài nguyên tự nhiên của sa mạc. Đây bao gồm các mỏ dầu mỏ và khí tự nhiên lớn ở Algérie và Libya, cũng như các mỏ phosphate quan trọng ở Maroc và Tây Sahara.
Phân tích mtDNA đã chỉ ra rằng nhiều cộng đồng dân cư đã đóng góp vào sự đa dạng dân tộc hiện nay ở Nam Maroc, bao gồm người Berber, Ả Rập, Phoenicia, người Do Thái Sephardic và người Phi Sahara. Trên toàn Sahara, người Berber, Ả Rập và người Phi Sahara có quan hệ di truyền mật thiết.
Các quốc gia trong vùng Sahara
- Algérie
- Tchad
- Ai Cập
- Libya
- Maroc
- Mauritanie
- Mali
- Niger
- Sudan
- Tunisia
- Tây Sahara