
Ví dụ như cụm từ 'đầy đặn, nở nang' trong câu thơ 'Khuôn trăng đầy đặn / Nét ngài nở nang' được dùng để mô tả nhan sắc của Thuý Vân. Không chỉ đơn thuần là miêu tả về khuôn mặt tròn trịa và sáng bóng như mặt trăng của nàng Vân, mà còn là về sự đầy đặn, tươi trẻ của số phận và cuộc đời của nàng. Tương tự, cụm từ 'thua, nhường' trong câu thơ 'Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da' được dùng để diễn đạt sự mềm mại và dịu dàng của thiên nhiên khi nhường bước cho nàng đi trên con đường êm đềm.
Hoặc như từ 'thông minh' trong câu 'Thông minh vốn sẵn tính trời' nhấn mạnh vào trí tuệ của Kiều, không chỉ là đặc điểm cá nhân mà còn là phản ánh của một nhân cách toàn diện. Kiều thu hút người đọc không chỉ bởi vẻ đẹp bên ngoài và tài năng hiếm có, mà còn bởi phẩm cách và trí tuệ vượt trội. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du thường nhấn mạnh về tài hoa và trí tuệ của nhân vật, như câu 'Anh minh phát tiết ra ngoài' đã chỉ ra sự sáng sủa của trí tuệ trong tài hoa của Kiều.
Cũng như từ 'não' trong câu 'Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân' được sử dụng một cách chính xác để diễn đạt nỗi buồn sâu sắc sẵn có trong tâm hồn. Từ này không chỉ là biểu hiện của nỗi buồn bên ngoài mà còn làm rung động tâm can của người đọc. Nó đã tạo ra những cảm xúc sâu lắng, như khiến Kim Trọng và Thúc Sinh tan nát lòng, và thậm chí khiến quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến phải cảm thương. Cả câu 'Não người cữ gió tuần mưa' cũng mang ý nghĩa tương tự.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Du sử dụng từ ngữ rất đặc biệt . Đặc biệt vì đôi khi chỉ một từ cũng có thể diễn tả được bản chất sâu bên trong của con người. Điển hình là trong câu thơ Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao mà nhà thơ dùng để miêu tả nhân vật Mã Giám Sinh khi đến cầu hôn Kiều. Một kẻ đã trải qua bốn mùa mưa nắng mà Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao thì thực sự khiến người ta cảm thấy lạ và khó chấp nhận. Vì 'nhẵn nhụi' thường được dùng để chỉ độ trơn, bóng, láng của đồ vật, chứ không phải để diễn đạt tính cách trang nhã, lịch sự của con người. Còn 'bảnh bao' thường dùng để khen ngợi trẻ em mặc quần áo đẹp nhưng lại khi dùng cho Mã Giám Sinh thì lại có ý châm chọc, mỉa mai. Một người đã già nhưng vẫn cố gắng tỏ ra trẻ trung, kiểu cách thì lại trở nên lố bịch, giả tạo và hơi thái quá, không tự nhiên .
Đặc biệt nhất vẫn là cách sử dụng từ trong câu Ghế trên ngồi tót sỗ sàng một cử chỉ vội vàng, khiếm nhã khiến Nguyễn Du phải loại bỏ từ 'sỗ sàng'. Cử chỉ đó không phù hợp với một người đến cầu hôn và càng không phù hợp với phẩm cách văn hoá của một giám sinh. Nó quá bất ngờ so với dự đoán của người đọc, quá phi lý so với vai trò của một sinh viên trường Quốc Tử Giám. Cử chỉ này là dấu hiệu đầu tiên để khẳng định bản chất của Mã Giám Sinh. Tự đặt mình lên trên, kiêng kỵ, chướng mắt trên ghế của người cao tuổi (những người lớn tuổi hơn) càng làm nổi bật tính vô lễ và đặc biệt là tâm lý tham lam của kẻ buôn người giàu có. Chỉ một từ 'tót' đã phản bội vai trò giám sinh của gã họ Mã.
Tuy vậy, điều đó chưa đủ. Cách mà hắn cò kè thêm bớt một lúc lâu rồi mới đưa ra giá vàng ngoài bốn trăm thì Nguyễn Du đã phác họa được vẻ đáng sợ, giả dối của Mã Giám Sinh. Hắn lộ ra bản chất là một kẻ buôn hàng giả chỉ quan tâm đến cách mua hàng với giá thấp nhất, chỉ cần vốn và có lời là được. Chỉ với một từ 'cò kè' rất phổ biến, Nguyễn đã thể hiện được bản chất tàn nhẫn, bẩn thỉ của những kẻ buôn người mà Mã Giám Sinh là một phần .
Và trong giai đoạn đầu tiên của cuộc đời lưu lạc, khi Kiều được đưa đến lầu Ngưng Bích. Nàng sống trong tâm trạng buồn bã, đau khổ đến cực điểm. Nàng đã không còn cơ hội để giữ cho tuổi trẻ của mình trong vườn hoa. Nàng không còn giữ được sự trinh tiết đối với Kim thì hai chữ 'khoá xuân' lại trở nên phỉnh, khinh bỉ với nàng. Thực ra nàng đang bị Tú Bà kiềm chế để chờ đợi một ngày kết hôn với người phù hợp, nhưng thực ra là mụ đang lập kế hoạch một âm mưu mới .
Trong những thời khắc cô đơn, trống vắng, nàng đã nhớ về người yêu. Chỉ một từ 'tưởng' đã diễn đạt được biết bao điều. Nếu 'mơ' là luôn nghĩ về những kỷ niệm, những điều tốt đẹp về nhau; hay 'nhớ' còn là kỷ niệm những điều tốt đẹp nhưng có thêm hi vọng một ngày gặp lại, thì 'tưởng' chỉ đơn giản là tưởng tượng, chỉ coi mối tình đầu trong sáng, ngây thơ của mình là một kỷ niệm đẹp, không dám mơ ước những điều xa xôi hơn, càng không dám hy vọng vào một ngày gặp lại .
Nhớ về người yêu, Kiều cũng đầy xót xa về cha mẹ. Nhưng Nguyễn Du đã không dùng từ 'thương' hay 'nhớ', mà lại chọn từ 'xót' đầu câu thơ. Bởi 'xót' không chỉ là sự nhớ, thương mà còn chứa đựng nỗi giận trời, nỗi trách mình .
Ngay cả việc sử dụng điệp ngữ buồn trông ở cuối đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích, ta càng thấy Nguyễn Du không phải là vô tình khi đặt chữ 'buồn' đứng trước chữ 'trông'. Buồn rồi mới trông, buồn mơ hồ trông thấy là nỗi buồn sâu sắc từ trong lòng Kiều, khiến mọi thứ trở nên mờ nhạt, cằn cỗi, héo úa như cuộc đời của nàng cùng với nỗi lo sợ về tương lai mờ mịt. Thật đúng là 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ' .
Trong việc đọc Truyện Kiều, ta còn gặp nhiều câu thơ, nhiều từ ngữ đặc sắc như thế. Chữ 'cậy' và chữ 'chịu lời' trong câu 723 được sử dụng rất khéo léo. Nguyễn Du chọn từ 'cậy' là hoàn hảo vì nếu thay bằng 'nhờ' và 'nghe lời', câu thơ sẽ trở nên quá độc tài, trở nên bình thường, phổ biến, mất đi sự sắc sảo. Vì điều Kiều muốn nói với người kia thuộc về tình cảm, nên không chắc người đó đã đồng ý. Do đó, sử dụng 'cậy' và 'chịu lời' là hợp lý nhất .
Chữ 'tốc' sử dụng trong câu 1.133 khi Tú Bà đi nhanh thẳng tới nơi khi Kiều đang ở sở khanh là hoàn hảo. Chỉ cần nghe câu thơ đó là có thể biết ngay rằng Tú Bà đang rất tức giận, rất quyết đoán, dù điều đó hoàn toàn khác với vẻ ngoài hòa nhã khi mụ dạy Kiều nghề. Một từ 'tốc' thôi nhưng có sức mạnh đặc biệt .
Như chỗ nàng Kiều vượt tường để trốn khỏi Quan Âm Các của nhà họ Hoạn. 'Cất' được sử dụng ở đây thật tuyệt vời. Vì ý nghĩa mơ hồ, không ai biết liệu Kiều đã văng mình qua tường hay leo qua tường để trốn đi .
Ví dụ như từ 'chặn' trong cặp câu thơ 3.181 , 3.182 trong màn Đoàn viên: Thân tàn chặn đục khơi trong/ Là nhờ quân tử khác lòng người ta. Nguyễn Du chọn 'chặn' thay vì 'gạn'. Bởi 'chặn' được dùng để miêu tả việc ngăn chặn dòng đục trong quá khứ của cuộc đời Kiều. Quả thật, trong hoàn cảnh của Kiều lúc đó, không thể 'gạn' đục khơi trong được. Chữ 'chặn' vì thế có giá trị biểu cảm cao .
Tổng thể, ngôn từ trong Truyện Kiều không chỉ tinh tế mà còn rất phong phú, độc đáo. Nhiều từ được sử dụng nhiều lần nhưng mỗi lần đều mang một ý nghĩa mới, không gây cảm giác nhàm chán như trong 63 trường hợp sử dụng từ 'thân', 59 trường hợp sử dụng từ 'xuân', 14 trường hợp sử dụng từ 'ngựa', và nhiều lần sử dụng từ 'tâm' và 'tài'. Chẳng hạn, chữ 'chút' là một từ uyển ngữ khó sử dụng, nhưng Nguyễn Du đã sử dụng nó đến 47 lần .
1. Vấn đề sử dụng từ ngữ ước lệ trong Truyện Kiều :
Là một nhà thơ thiên tài của dân tộc, Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ thi pháp cổ điển về khắc hoạ, xây dựng hình tượng nhân vật. Vì vậy, ngôn từ ước lệ được sử dụng phổ biến trong Truyện Kiều. Như người xưa, nhà thơ đã sử dụng vẻ đẹp của thiên nhiên như tuyết – mai, trăng – hoa, mây – tuyết, thu thuỷ – xuân sơn, hoa – liễu... để làm chuẩn mực, thước đo giá trị, vẻ đẹp của con người. Tác giả đã sử dụng bút pháp tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá nhan sắc và tính cách hai chị em Kiều. Đó là Mai cốt cách, tuyết linh thần, khuôn trăng, nét ngài, hoa cười ngọc thốt, mây thua, tuyết nhường, làn thu thuỷ, nét xuân sơn, hoa ghen, liễu hờn. Để miêu tả tính cách thanh tao, mảnh dẻ như mai; tinh thần trong trắng như tuyết. Một vẻ đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người một vẻ của chị em Kiều .
Mô tả về nàng Vân kiều diễm Nguyễn Du dùng: khuôn trăng, nét ngài, hoa cười, ngọc thốt, mây thua, tuyết nhường cùng với một số từ nôm na và từ ngữ đầy đặn, nở nang vừa miêu tả được vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của nàng Vân, vừa như dự báo được cuộc sống sau này rất bình yên của nàng .
Với Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng vẻ đẹp của Thuý Vân để tạo ra hình ảnh của Kiều. Nhà thơ đã dùng 12 câu thơ để mô tả về Kiều, thể hiện tình cảm đặc biệt dành cho nhân vật chính của mình. Nhiều tài liệu cổ đã được sử dụng để vẽ nên bức chân dung tuyệt vời của Kiều, với các yếu tố như Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, hoa ghen, liễu hờn... Với phong cách lý tưởng hoá, Kiều được miêu tả như một cô gái có đôi mắt trong sáng như mặt nước hồ thu, nét mày cong thanh tú như dáng núi mùa xuân. Đó là một vẻ đẹp rực rỡ, sắc sảo mặn mà, vừa duyên dáng vừa có tâm hồn. Tuy nhiên, đẹp đến mức khiến mọi thứ phải ghen tỵ, nhưng cuộc sống của Kiều cũng phải trải qua nhiều sóng gió, đau khổ. Quãng thời gian lưu lạc của Kiều đã chứng minh điều đó.
Là một nghệ sĩ của từ ngữ, Nguyễn Du không chỉ sử dụng các tài liệu cổ một cách sáng tạo mà còn kết hợp với trí tưởng tượng lớn lao. Khi nói về nỗi buồn của người đẹp, nhà thơ đã liên kết với hình ảnh của hoa, của lệ hoa, và thậm chí là với hình dáng mong manh như cúc, mảnh mai như mai... Tóm lại, thông qua việc sử dụng các tài liệu cổ, Nguyễn Du đã tạo ra những từ ngữ độc đáo, mang dấu ấn của riêng mình nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc.
2. Ngôn từ về thiên nhiên (vũ trụ thi ca) trong Truyện Kiều .
Theo tác giả Đặng Tiến, vũ trụ thi ca trong Truyện Kiều là một không gian mở rộng với bầu trời bao la. Ngoài cảnh ngày xuân với thảm cỏ non xanh ngắt tận chân trời, không gian còn là một vũ trụ mênh mông, với cát vàng trải dài, bụi hồng xa xa. Đó là một vũ trụ phản ánh cuộc sống, từ chối con người, nơi mà cảnh vật trải dài vô tận, với cồn cát nhấp nhô như sóng biển, với bụi hồng trải dài khắp mênh mông.
Ngoài ra, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du còn sử dụng rất nhiều ngôn từ về vũ trụ thi ca: Con đường khuya phải ngắt tạnh trong bóng đêm mênh mang, màu sắc của rừng thu phải là màu của sự hoang dại, khung trời nhớ thương phải trải đầy ánh mắt mây trắng Tần xa xa, đến gian lều cỏ bên sông Tiền Đường cũng phải là một gian nước xanh biếc với mây vàng bao phủ. Ngoài ra còn có những khoảnh khắc màu xanh tơ của cây liễu bên cạnh cầu, tiếng gió thổi lá cây, với hàng nghìn quả dâu xanh xuất hiện trong Truyện Kiều, những phút giây của sự chia ly, những lúc bước chân chậm rãi, những lúc tâm hồn bị xao lãng. Dường như nhà thơ muốn thu nhận cả đất trời nhân loại bằng cái nhìn sâu lắng trong hình ảnh của cánh đồng bát ngát vàng óng, cái nhìn đong đếm kích thước cuộc sống hàng ngày để xác định vị trí, ý nghĩa của mình trong cuộc sống.
4 . Về từ ngữ chỉ màu sắc trong Truyện Kiều :
Trong Truyện Kiều, có đến 119 lần sử dụng từ ngữ chỉ màu sắc, với đa dạng màu sắc. Nguyễn Du sử dụng các từ chỉ màu sắc để tạo ra những hình ảnh trừu tượng, phong phú và đầy giá trị nghệ thuật.
Trước hết, chúng ta cần xem xét từ ngữ chỉ màu sắc trong các đoạn trích học ( từ sách Ngữ Văn 9 – tập 1) :
Miêu tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt hơn cả mây; làn da trắng mịn hơn cả tuyết ( Mây vượt trội tóc, tuyết nhường vẻ da ). Ở đây, Nguyễn Du sử dụng màu mây thay vì màu đen để miêu tả mái tóc. Bởi trong Truyện Kiều, màu đen không được coi là một màu sắc đẹp, do đó tóc đen đẹp được gọi là tóc mây.
Miêu tả nàng Kiều với đôi môi đỏ thắm khiến hoa phải ganh tị vì không thể so sánh, và mái tóc xanh mượt khiến liễu phải ghen tỵ ( Hoa ganh tị thắm, liễu ghen tỵ xanh ) .
Kế đến là màu của cỏ non lan tỏa đến chân trời, một màu xanh mát mẻ bao la mênh mông, và điểm nhấn trên nền xanh ấy là một vài bông hoa lê trắng. Sự hòa quyện của các gam màu khiến cho bức tranh thiên nhiên trở nên sống động hơn bao giờ hết, đầy sức sống và tươi mới.
Không chỉ có màu trắng và màu xanh, Nguyễn Du còn đề cập đến màu vàng, màu hồng trong câu Cát vàng cồn kia, bụi hồng xa xăm. Đó không chỉ là màu vàng của cát nhấp nhô và màu hồng của bụi bẩn cuốn lên từ xa mênh mông, mà còn là biểu tượng của những khó khăn trong cuộc sống.
Đó là màu vàng tàn tạ héo uế của cỏ dại khô héo / Chân mây mặt đất một màu xanh u sầu là những màu buồn bã, tẻ nhạt, thiếu sức sống, màu của sự suy tàn và tuyệt vọng.
Trong Truyện Kiều, các từ chỉ màu sắc không chỉ miêu tả hiện thực mà còn mang tính biểu tượng. Tác giả thường sử dụng màu sắc của các đối tượng để mô tả cảnh vật và gợi lên tình cảm. Ở đây, có màu sắt đen sì của Hồ Tôn Hiến, sắc màu da tối của mụ Tú Bà, mặt như chàm đổ của Thúc Sinh, và nhiều loại cỏ khác nhau như cỏ non lan tỏa, cỏ dại nửa vàng nửa xanh, cỏ lượt như sương, cỏ ánh bóng tà, và cỏ xanh mướt.
Với Nguyễn Du, màu sắc là kết quả của cảnh vật và tâm trạng. Màu xanh của cỏ non liên quan đến cảm xúc rộng lớn về tương lai, với vẻ tươi mới, thuần khiết của một vài bông hoa lê sớm mùa, và cỏ dại nửa vàng nửa xanh như cuộc đời dang dở. Cỏ ánh bóng tà, nhấp nhô trong ánh nắng chiều, gợi lên cảm giác hồi hộp, xúc động.
Màu sắc trong Truyện Kiều không chỉ là màu sắc của cảnh vật mà còn là màu sắc của tình cảm. Đó là những màu quan san, màu quan tái, màu khơi trêu, màu của nỗi nhớ. Bốn phương mây trắng như một màu, trông vời cố quốc biết đâu là nhà. Trời cao trông rộng mênh mông như một màu bao la. Nguyễn Du không chỉ mô tả sắc màu của cảnh vật mà còn diễn tả sắc màu của tình cảm, làm cho phong cảnh trở nên sống động và đầy hồn.
5. Về cách sử dụng hư từ:
Theo ý kiến của nhiều người, Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm duy nhất sử dụng hư từ một cách đúng đắn nhất. Cụ thể là các từ 'bao', 'bấy' được sử dụng một cách đặc biệt trong Truyện Kiều. Tất cả các từ này đều có ý hỏi để tỏ ra nghĩa là nhiều không phải ít. Tương tự, từ 'bấy' cũng được sử dụng độc đáo như 'Khéo vô duyên bấy là mình với ta'. Nhà thơ Nguyễn Du cũng đặt sau các từ 'bao', 'bây', 'bấy' một chữ để tạo thành liên từ chỉ thời gian như 'bao giờ', 'bây giờ', 'bấy giờ'. Những hư từ này được sử dụng phong phú trong Truyện Kiều.
Rồi đến chữ 'bây', nhưng chữ này không thể dùng độc đắc như 'Lão kia có giở bài bây'.
Nhà thơ Nguyễn Du đã sáng tạo ra các liên từ chỉ thời gian sau các từ 'bao', 'bây', 'bấy' như 'bao giờ', 'bây giờ', 'bấy giờ'. Những hư từ này được sử dụng rộng rãi trong Truyện Kiều.
Các liên từ như 'bao nhiêu', 'bấy nhiêu' đã được sử dụng một cách linh hoạt trong tác phẩm, cụ thể là trong 3 trường hợp sau:
1. Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường; Bấy nhiêu của, mấy ngày đường. Bấy nhiêu dùng độc nhất không đi đôi với bao nhiêu.
2. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên; Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình, thì bấy nhiêu dùng độc nhất không đi với bao nhiêu.
3. Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi; Bấy nhiêu đi đôi với bao nhiêu...
6. Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật.
a. Trước hết, cần nói đến từ ngữ mang hương vị ca dao, thành ngữ, tục ngữ.
Trong đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Truyện Kiều, có một tứ thơ mang phong cách thành ngữ tục ngữ. Để diễn đạt tình cảm nhớ nhung người yêu, thương cha mẹ, Nguyễn Du đã truyền đạt tâm trạng đó qua thời gian trôi qua và khoảng cách không gian như: dưới nguyệt chén đồng, rày trông mai chờ, tựa cửa hôm mai cách mấy nắng mưa, chân trời góc bể, tấm son gột rửa, hoa trôi man mác, nội cỏ dàu dàu, chân mây mặt đất, gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng... Những từ ngữ này làm cho cách sử dụng ngôn từ trở nên gần gũi, dễ hiểu, và mang đậm dấu ấn dân tộc.
b. Cách tạo ra từ mới đặc sắc trong Truyện Kiều.
Nguyễn Du đã sáng tạo ra một loạt từ ngữ không có trong thực tế, cũng không xuất hiện trong từ điển thông thường; theo như ông Trần Đình Sử đã nói, đó là những từ ngữ ý tưởng (là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm trí, không phải là hình ảnh sao chép thực tế) có cấu trúc riêng, thể hiện sự cảm nhận chủ quan của tác giả.
Nói về nước mắt, có giọt ngọc, giọt châu, giọt tương, giọt hồng, giọt tủi, giọt riêng...
Về giấc ngủ, ta nên nhắc đến giấc mộng xuân, giấc mai, giấc hoa, giấc tiên, giấc say mê...
Nói về mái tóc, không chỉ là mái tóc mây, mái tóc sương mà còn là mái tóc buồn bã...
Nói về con đường xa, ta có thể nhắc đến hàng dặm hồng, dặm xanh, dặm băng, dặm khách, dặm phần...
Khi đề cập đến chén rượu, ta không thể bỏ qua chén xuân, chén quỳnh, chén đưa, chén mời, chén khuyên chén đồng... mỗi loại mang đậm nét tình huống riêng biệt.
Về cửa sổ, ta có thể sử dụng từ ngữ như song sa, song mai, song hồ, song mây, song trăng, song đào, song phi... để diễn đạt đa dạng mà cửa sổ có thể hiện trong từng tình huống.
Khi nói về bóng trăng, ta có thể sử dụng từ ngữ như bóng nga, bóng nguyệt...
Về tấm lòng, có thể gọi là tấm riêng, tấm yêu, tấm son, tấm thành hoặc tấc cỏ, tấc riêng, tấc son, tấc lòng...
Dù là gió, cũng có đủ loại như gió mưa, gió trăng, gió trúc mưa mai, gió tựa hoa kề, gió tủi mưa sầu...
Những từ ngữ ẩn dụ này là phần quan trọng của ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã tạo ra những từ ngữ mới, làm cho câu chuyện trở nên đặc sắc hơn.
Nhà thơ đã phá vỡ nhiều cấu trúc ngôn từ truyền thống để tạo ra những kết hợp mới lạ như ăn gió nằm mưa, bướm chán ong chường, bướm lả ong lơi... những kết hợp này tạo nên những hình ảnh phong phú và sâu sắc trong tâm trí người đọc.
Nói về văn học Tiếng Việt, chỉ cần nhắc đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, ta đã thấy ngôn từ mới tỏa sáng như một nghệ thuật. Nguyễn Du thật sự là một nhà văn lớn về ngôn từ, cách ông xử lý ngôn ngữ dân tộc thật sự ấn tượng.
Mytour