Tư duy nhanh và chậm của Daniel Kahneman, cuốn sách tóm tắt hàng thập kỷ nghiên cứu của ông giúp ông đoạt giải Nobel, giải thích những đóng góp của ông trong tư duy hiện đại về tâm lý và kinh tế học hành vi. Trong nhiều năm, Kahneman và những người cộng sự của ông đã đóng góp một cách to lớn cho sự hiểu biết mới về tâm trí con người. Giờ đây, chúng ta đã hiểu sâu sắc hơn về cách con người ra quyết định, tại sao một số sai lầm trong đánh giá lại rất phổ biến và làm thế nào để cải thiện bản thân tốt hơn.
Ai nên đọc cuốn sách này?
- Bất cứ ai quan tâm đến cách tâm trí hoạt động, cách con người giải quyết vấn đề, ra phán xét và những điểm yếu mà tâm trí của chúng ta thường mắc phải.
- Bất cứ ai quan tâm đến những đóng góp của người đoạt giải Nobel Daniel Kahneman đối với tâm lý học và kinh tế học hành vi, cũng như ứng dụng của chúng trong xã hội.
- Bất cứ ai yêu thích đọc các cuốn sách về tâm lý học cuộc sống, làm sáng tỏ cách suy nghĩ và hành động hàng ngày của chúng ta.
Tác giả cuốn sách này là ai?
Tiến sĩ Daniel Kahneman đã đoạt giải Nobel Kinh Tế năm 2002. Ông là một học giả có uy tín tại Trường Woodrow Wilson về Công vụ và Các vấn đề Quốc tế, Giáo sư Danh dự về Tâm lý học và Công vụ tại Trường Woodrow Wilson, Giáo sư Danh dự Eugene Higgins về Tâm lý học tại Đại học Princeton, và là một học giả của Trung tâm Lý trí tại Đại học Hebrew ở Jerusalem.
1: Về hai tâm trí: hành vi của chúng ta được điều khiển bởi hai hệ thống khác nhau – một cái tự động và một cái hay suy xét
Trong tâm trí của chúng ta, có một vở kịch thú vị diễn ra, giống như một bộ phim, giữa hai nhân vật với nhiều tình tiết rối ren, gây cấn và mâu thuẫn. Hai nhân vật này là Hệ thống 1 – nhanh nhẹn, tự động và cảm tính; và Hệ thống 2 – chậm rãi, cẩn thận và tính toán. Sự tương tác của chúng ảnh hưởng đến cách chúng ta suy nghĩ, đưa ra phán đoán, quyết định và hành động.
Hệ thống 1 là phần của não hoạt động bằng cách tự động và bất ngờ, thường không có kiểm soát ý thức. Bạn có thể trải nghiệm hệ thống này khi nghe một âm thanh to và đột ngột. Bạn sẽ làm gì? Có thể bạn sẽ tự động dừng lại và chuyển sự chú ý của mình đến âm thanh đó. Đó chính là Hệ thống 1.
Hệ thống này là kết quả của hàng triệu năm tiến hóa: những lợi ích sống sót nằm trong khả năng ra quyết định và phán đoán nhanh chóng.
Hệ thống 2 là thứ chúng ta nhắc đến khi nghĩ về phần não chịu trách nhiệm cho quá trình ra quyết định, lập luận và niềm tin của mỗi người. Nó điều khiển những hoạt động có ý thức của tâm trí như kiểm soát bản thân, lựa chọn và tập trung.
Ví dụ, hãy tưởng tượng bạn đang tìm kiếm một người phụ nữ trong đám đông. Tâm trí của bạn sẽ cố gắng tập trung vào nhiệm vụ: nó sẽ ghi nhớ những đặc điểm của người phụ nữ đó hoặc bất cứ điều gì giúp xác định vị trí của cô ấy. Khả năng này giúp loại bỏ những sự sao lãng, giúp bạn bỏ qua những thứ không liên quan. Nếu bạn duy trì sự tập trung này, bạn có thể nhìn thấy cô ấy trong vài phút, nhưng nếu bạn mất tập trung, bạn sẽ khó có thể tìm thấy cô ấy.
Như bạn sẽ thấy sau đây, mối quan hệ giữa hai hệ thống này quyết định cách chúng ta hành động.
2: Hệ thống lười biếng: tính chần chừ có thể gây ra sai lầm và ảnh hưởng đến trí thông minh
Để thấy cách hai hệ thống hoạt động, hãy thử giải bài toán cây gậy-và-quả bóng nổi tiếng sau:
Một cây gậy và một quả bóng có tổng giá là $1.10. Cây gậy đắt hơn quả bóng $1. Vậy giá của quả bóng là bao nhiêu?
Kết quả $0.10 xuất hiện trong tâm trí của bạn là do hệ thống 1 hoạt động tự động và cảm tính, và nó đang hoạt động! Hãy dành vài giây để thử giải bài toán này xem.
Bạn đã nhận ra sai sót của mình chưa? Đáp án chính xác là $0.05.
Câu chuyện vừa diễn ra là Hệ thống 1 tự động của bạn đã nhanh chóng đưa ra câu trả lời dựa trên cảm tính. Nhưng nó đã làm quá vội vàng.
Thường thì, khi gặp một tình huống không rõ ràng, Hệ thống 1 sẽ gọi Hệ thống 2 ra để giải quyết vấn đề, nhưng trong bài toán cây gậy và quả bóng, Hệ thống 1 đã bị lừa. Nó đã nhìn nhận vấn đề quá đơn giản, và sai lầm khi nghĩ rằng mình có thể kiểm soát được.
Bài toán cây gậy-và-quả bóng đã phơi bày bản năng lười biếng của tâm trí. Khi não hoạt động, chúng ta thường chỉ sử dụng ít năng lượng nhất cần thiết. Điều này còn được gọi là quy luật tiết kiệm năng lượng. Vì việc kiểm tra lại đáp án với Hệ thống 2 sẽ tốn nhiều năng lượng hơn, tâm trí thường tránh làm điều đó và nghĩ rằng chỉ cần sử dụng Hệ thống 1 là đủ.
Lười biếng có hại vì việc tập trung vào Hệ thống 2 là quan trọng trong sự thông minh của chúng ta. Nghiên cứu chỉ ra rằng làm những công việc liên quan đến Hệ thống 2 yêu cầu tập trung và tự kiểm soát, từ đó giúp ta trở nên thông minh hơn. Bài toán cây gậy-và-quả bóng minh họa cho điều này, vì tâm trí có thể kiểm tra lại đáp án bằng cách sử dụng Hệ thống 2 và tránh được những sai sót thông thường.
Nếu bị lười biếng và ít sử dụng Hệ thống 2, tâm trí sẽ tự hạn chế sức mạnh trí tuệ của mình.
3: Lái tự động: Tại sao chúng ta không luôn luôn kiểm soát ý thức suy nghĩ và hành động của mình.
Bạn nghĩ gì khi bạn nhìn thấy các chữ cái “SO_P”? Có thể chưa có gì. Nhưng nếu bạn nhìn thấy chữ “EAT” (ĂN) đầu tiên? Bây giờ, khi nhìn lại chữ “SO_P”, bạn có thể điền nốt nó thành “SOUP.” Quá trình này lại được gọi là mồi (Priming).
Chúng ta bị thả mồi khi bắt gặp một từ, một khái niệm hoặc một sự kiện khiến ta liên tưởng đến những từ và khái niệm liên quan. Nếu bạn nhìn chữ “SHOWER” (TẮM) thay vì chữ “EAT” (ĂN) bên trên, có thể bạn sẽ hình dung ra chữ “SOAP” (XÀ PHÒNG).
Hiện tượng thả mồi này không chỉ ảnh hưởng tới cách ta nghĩ mà còn tới cách ta hành động. Giống như tâm trí bị ảnh hưởng khi nghe một số từ và khái niệm nhất định, cơ thể bạn cũng có thể bị ảnh hưởng. Một ví dụ tiêu biểu về hiện tượng này có thể được tìm thấy trong 1 nghiên cứu trong đó những người tham giả bị thả mồi bằng những từ gắn với tuổi già, như “Florida” và “nếp nhăn”, có phản ứng đi chậm hơn bình thường.
Đáng ngạc nhiên là, chúng ta hoàn toàn không ý thức được suy nghĩ và hành động của mình bị tác động bởi việc thả mồi.
Vì vậy thả mồi cho thấy, trái với lập luận của nhiều người, chúng ta không phải lúc nào cũng có thể kiểm soát có ý thức những hành động, phán đoán và lựa chọn của mình. Thay vào đó chúng ta luôn luôn bị định hướng bởi những điều kiện xã hội và văn hóa nhất định.
Ví dụ, nghiên cứu được thực hiện bởi Kathleen Vohs chứng minh rằng chỉ nghĩ đến tiền sẽ khiến mọi người sống cá nhân hơn. Những người bị thả mồi bằng khái niệm tiền bạc – ví dụ, như nhìn ảnh đồng tiền – sẽ hành động độc lập và ít sẵn sàng dính líu, phụ thuộc hay chấp nhận yêu cầu từ người khác hơn. Một ngụ ý từ nghiên cứu của Vohns là sống trong xã hội chứa đầy những kích thích gắn với tiền có thể khiến mọi người sống ích kỉ hơn.
Thả mồi, như những yếu tố xã hội khác, có thể thay đổi suy nghĩ và từ đó ảnh hưởng đến sự lựa chọn, phán đoán và hành vi của một người – và chúng cũng phản ánh vào văn hóa và tác động đến kiểu xã hội chúng ta đang sống.
4: Phán đoán nhanh: Tâm trí quyết định nhanh như thế nào, kể cả khi nó chưa đủ thông tin để đưa ra quyết định lý trí.
Hãy tưởng tượng bạn gặp một người tên là Ben tại một buổi tiệc và cảm thấy anh ấy rất dễ thương. Sau đó, khi một người hỏi liệu bạn biết ai muốn quyên góp cho quỹ từ thiện không. Bạn nghĩ ngay đến Ben, dù điều duy nhất bạn biết về anh ta là anh ta thân thiện.
Nói cách khác, bạn ưa thích một phần nào đó trong tính cách của Ben, và vì vậy bạn cho rằng bạn sẽ thích tất cả về anh ấy. Chúng ta thường phê phán hoặc khen ngợi một người kể cả khi chúng ta biết rất ít về họ.
Xu hướng đơn giản hóa mọi thứ khi chưa có đủ thông tin của tâm trí thường dẫn đến những lỗi phán đoán. Hiện tượng này được gọi là hiệu ứng halo: cảm giác tích cực về tính dễ thương của Ben khiến bạn đặt một vòng sáng lên anh ta, ngay cả khi bạn không biết nhiều về anh ta.
Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng là cách tâm trí của chúng ta tóm gọn khi đưa ra phán đoán.
Con người cũng thường ưa thích thông tin ủng hộ niềm tin đã có của họ và chấp nhận mọi thứ phù hợp với niềm tin đó.
Chúng ta thường dễ coi James là một người thân thiện khi không có thông tin khác, bởi vì tâm trí tự động đồng ý với ý kiến được đề xuất.
Hiệu ứng hào quang và thiên kiến xác nhận thường xảy ra cùng nhau vì tâm trí chúng ta thích làm ra phán đoán nhanh chóng. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến sai lầm vì không có đủ dữ liệu để phán đoán chính xác.
Tương tự như hiện tượng thả mồi, những hiện tượng nhận thức này có thể xảy ra một cách vô thức và ảnh hưởng đến lựa chọn, phán đoán và hành động của chúng ta.
5: Suy nghiệm: Tâm trí sử dụng các lối tắt để ra quyết định nhanh chóng như thế nào
Chúng ta thường phải đưa ra phán xét nhanh chóng trong một số tình huống. Để làm điều này, tâm trí của chúng ta đã phát triển những quy tắc nhỏ giúp chúng ta nhanh chóng hiểu môi trường xung quanh, được gọi là những quy tắc dựa trên kinh nghiệm - suy nghĩ.
Thường thì, những quy trình này có ích, nhưng vấn đề là chúng ta thường lạm dụng chúng. Sử dụng những quy tắc này trong những tình huống không phù hợp có thể dẫn đến sai lầm. Để hiểu rõ hơn về các quy tắc dựa trên kinh nghiệm và những lỗi kèm theo, ta có thể xem xét hai loại sau: thay thế và sẵn có.
Thay thế xảy ra khi ta trả lời một câu hỏi dễ hơn một câu hỏi thực sự được đưa ra.
Ví dụ, hãy thử câu hỏi này: “Một phụ nữ đang ứng cử vào vị trí cảnh sát trưởng. Liệu cô ấy sẽ thành công không?” Thay vì trả lời câu hỏi thực sự, ta thay vào đó tự hỏi câu dễ dàng hơn: “Liệu cô ấy có phải là một cảnh sát trưởng tốt không?”
Thay vì nghiên cứu hồ sơ và chính sách của ứng viên, ta chỉ đơn giản tự hỏi liệu hình ảnh của cô ấy có khớp với ý tưởng của ta về một cảnh sát trưởng tốt không. Nếu không, ta có thể loại bỏ cô – ngay cả khi cô ấy có kinh nghiệm chống tội phạm, điều này có thể làm cô ấy trở thành ứng viên xuất sắc.
Tự nghiệm sẵn có xảy ra khi bạn tin rằng một sự kiện có khả năng xảy ra cao hơn chỉ vì bạn thường nghe về nó nhiều hơn, hoặc nhớ nó dễ dàng hơn.
Ví dụ, mặc dù đột quỵ gây tử vong nhiều hơn tai nạn giao thông, nhưng một nghiên cứu cho thấy 80% người được hỏi tin rằng có nhiều người chết vì tai nạn giao thông hơn. Điều này là do chúng ta thường nghe về tai nạn giao thông nhiều hơn trên truyền thông, và chúng để lại ấn tượng sâu sắc hơn; chúng ta dễ nhớ những cái chết kinh hoàng như vậy hơn là chết vì đột quỵ, và do đó chúng ta có thể phản ứng không phù hợp với những nguy hiểm này.
Ghét con số: Tại sao chúng ta gặp khó khăn trong việc hiểu thống kê và tránh sai lầm có thể xảy ra vì nó.
Làm sao bạn có thể dự đoán việc này sẽ xảy ra hay không?
Một cách hiệu quả là nhớ tỉ lệ cơ sở. Nó ám chỉ tỉ lệ cơ sở trong thống kê, mà các bản thống kê khác phụ thuộc vào. Ví dụ, nếu một hãng tắc xi lớn có 20% xe màu vàng và 80% xe màu đỏ. Nghĩa là tỉ lệ cơ sở cho xe tắc xi màu vàng là 20% và xe màu đỏ là 80%. Khi bạn đoán màu xe, hãy nhớ tỉ lệ cơ sở và bạn sẽ đưa ra dự đoán tương đối chính xác.
Vì vậy ta nên luôn nhớ tỉ lệ cơ sở khi dự đoán, nhưng không may là điều này thường không xảy ra. Trên thực tế, việc quên tỉ lệ cơ sở xảy ra cực kì phổ biến.
Một trong những lí do ta quên tỉ lệ cơ sở là ta tập trung vào thứ mình kì vọng hơn là thứ có khả năng xảy ra cao nhất. Ví dụ, nếu bạn thấy 5 chiếc xe đỏ đi qua, bạn có thể cảm thấy khả năng cao chiếc tiếp theo sẽ đỏ. Nhưng xác suất chiếc xe tiếp theo có màu đỏ vẫn khoảng 80% – và nếu ta nhớ tỉ lệ cơ sở, ta sẽ nhận ra điều này. Nhưng thay vào đó, ta thường tập trung vào thứ ta muốn thấy, một chiếc xe màu vàng, và vì vậy ta dễ mắc sai lầm.
Quên tỉ lệ cơ sở là một lỗi phổ biến khi đối mặt với số liệu. Ta thường quên rằng mọi thứ sẽ hồi quy về trung bình. Nghĩa là thừa nhận rằng tất cả tình huống đều có giá trị trung bình, và các biến động khỏi giá trị trung bình cuối cùng cũng sẽ về điểm cân bằng.
Ví dụ, nếu một cầu thủ bóng đá trung bình ghi 5 bàn mỗi tháng, sau đó ghi được 10 bàn trong tháng 9, huấn luyện viên của anh sẽ rất hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu anh ta chỉ ghi 5 bàn mỗi tháng trong phần còn lại của năm, huấn luyện viên sẽ chỉ trích anh ta vì không duy trì phong độ. Nhưng thực tế, anh ta không xứng đáng bị chỉ trích vì anh ta chỉ đang hồi quy về trung bình!
Bất hảo trong quá khứ: Tại sao chúng ta nhớ những sự kiện từ quan điểm sau này mà không phải từ trải nghiệm ban đầu.
Tâm trí của chúng ta không ghi nhớ các trải nghiệm theo một cách tuyến tính. Chúng ta có hai cơ chế ghi nhớ các tình huống khác nhau.
Đầu tiên là bản thể trải nghiệm, ghi lại cảm giác của chúng ta ở hiện tại. Nó đặt câu hỏi: “Bây giờ tôi cảm thấy như thế nào?”
Thứ hai là bản thể hồi tưởng, ghi lại toàn bộ sự kiện đã xảy ra. Nó đặt câu hỏi: “Tổng quát thì tôi cảm thấy như thế nào?”
Bản thể trải nghiệm mô tả chính xác hơn những gì đã xảy ra, vì cảm giác của chúng ta lúc đó là chính xác nhất. Tuy nhiên, bản thể hồi tưởng không chính xác bằng vì nó chỉ ghi lại một số ký ức nổi bật sau khi sự kiện kết thúc.
Có hai lí do giải thích tại sao phần ghi nhớ thường chiếm ưu thế so với phần trải nghiệm. Nguyên nhân đầu tiên gọi là quên mất yếu tố thời gian, khi chúng ta chỉ nhớ một phần nhỏ của quá trình sự kiện. Thứ hai là do quy tắc đỉnh-đáy, khi chúng ta thường quá nhấn mạnh những điều xảy ra ở cuối một sự kiện.
Hãy tưởng tượng một thí nghiệm ghi lại kí ức của mọi người về một lần nội soi đau đớn. Trước khi bắt đầu, họ được chia thành hai nhóm: một nhóm nội soi lâu dài, trong khi nhóm khác nội soi nhanh, nhưng đau đớn tăng dần ở cuối.
Bạn có thể nghĩ rằng những bệnh nhân trải qua nội soi lâu sẽ cảm thấy khó chịu hơn, vì họ phải chịu đau lâu hơn. Đó là cảm giác của họ lúc đó. Trong quá trình nội soi, khi được hỏi về đau đớn, kí ức trải nghiệm sẽ cho chúng ta biết rằng ai phải chịu đau lâu hơn sẽ cảm thấy tệ hơn. Nhưng sau khi sự kiện kết thúc và kí ức hồi tưởng chiếm ưu thế, những người nội soi nhanh với kết quả cuối cùng đau đớn hơn sẽ cảm thấy khó chịu nhất. Cuộc thử nghiệm này là một ví dụ rõ ràng về quên mất yếu tố thời gian và quy tắc đỉnh-đáy, cũng như về những kí ức không chính xác của chúng ta.
Sức mạnh ý chí: Cách tâm trí điều chỉnh sự tập trung có thể ảnh hưởng đáng kể đến suy nghĩ và hành vi của chúng ta như thế nào
Tâm trí của chúng ta sử dụng các mức năng lượng khác nhau tùy thuộc vào loại công việc. Khi không cần phải tập trung nhiều và ít năng lượng hơn, chúng ta ở trong trạng thái tinh thần thoải mái. Tuy nhiên, khi cần phải tập trung, tâm trí sử dụng nhiều năng lượng hơn và bước vào trạng thái căng thẳng.
Những thay đổi này trong mức độ năng lượng của não ảnh hưởng đáng kể đến cách chúng ta hành động.
Khi tâm trí thoải mái, Hệ thống 1 cảm tính chiếm ưu thế, và Hệ thống 2 logic và cần nhiều năng lượng sẽ suy yếu. Điều này có nghĩa là chúng ta sẽ quyết định theo trực giác hơn, sáng tạo và hạnh phúc hơn, nhưng cũng dễ phạm sai lầm hơn.
Khi tâm trí căng thẳng, nhận thức của chúng ta được nâng cao, và Hệ thống 2 sẽ làm chủ. Hệ thống 2 có xu hướng kiểm tra lại các phán đoán của chúng ta hơn Hệ thống 1, vì vậy mặc dù chúng ta có thể ít sáng tạo hơn, nhưng cũng ít mắc lỗi hơn.
Bạn có thể chủ động ảnh hưởng đến mức năng lượng mà tâm trí sử dụng để chọn hệ thống nào làm chủ cho từng công việc. Ví dụ, nếu muốn thông điệp của bạn thuyết phục hơn, hãy thử chuyển sang trạng thái tâm trí thoải mái.
Một cách để làm điều này là tiếp xúc nhiều lần với thông tin lặp lại. Nếu thông tin được lặp đi lặp lại, hoặc dễ ghi nhớ hơn, nó sẽ trở nên thuyết phục hơn. Đó là bởi vì tâm trí đã thay đổi để phản ứng tích cực hơn khi tiếp xúc nhiều lần với cùng một thông điệp. Khi chúng ta nhìn thấy một thứ đã quen thuộc, chúng ta sẽ bước vào trạng thái tâm trí thoải mái.
Mặt khác, tâm trí căng thẳng sẽ giúp chúng ta thành công trong các công việc liên quan đến con số.
Chúng ta có thể chuyển sang trạng thái này bằng cách tiếp xúc với thông tin được trình bày một cách rắc rối, ví dụ bằng phông chữ khó đọc. Khi đó tâm trí sẽ phải chú tâm hơn và tăng cường mức năng lượng để hiểu vấn đề, và vì vậy chúng ta ít có khả năng từ bỏ hơn.
9: Tài rủi: cách xác suất được trình bày như thế nào sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta đánh giá mức độ rủi ro.
Cách chúng ta đánh giá ý tưởng và tiếp cận vấn đề chịu ảnh hưởng lớn từ cách chúng được trình bày. Chỉ cần thay đổi một chi tiết nhỏ hoặc nhấn mạnh vào một câu hoặc một câu hỏi có thể thay đổi lớn phản ứng của chúng ta.
Một ví dụ điển hình có thể tìm thấy trong cách chúng ta đánh giá rủi ro:
Bạn có thể nghĩ rằng khi chúng ta có thể xác định xác suất của rủi ro, mọi người sẽ tiếp cận nó cùng một cách. Tuy nhiên, thực tế không phải vậy. Ngay cả với những khả năng được tính toán cẩn thận, chỉ cần thay đổi cách diễn đạt một con số có thể thay đổi cách chúng ta tiếp cận nó.
Ví dụ, mọi người sẽ thấy một sự việc hiếm gặp có khả năng xảy ra cao hơn nó được diễn đạt dưới dạng tần suất tương đối hơn là xác suất thống kê.
Trong một ví dụ còn được biết đến là Thí nghiệm Mr. Jones, hai nhóm chuyên gia tâm thần được tham vấn về việc liệu thả ông Jones khỏi bệnh viện tâm thần lúc này có an toàn. Một nhóm được bảo rằng bệnh nhân như ông Jones có “10% khả năng hành hung người khác,” và nhóm thứ 2 được bảo rằng “trong 100 bệnh nhân giống ông Jones, 10 người có khả năng gây ra bạo lực.” Kết quả là nhóm 2 có số người từ chối thả người cao gấp đôi nhóm 1.
Sự tập trung của chúng ta còn bị sao lãng khỏi những thông tin có liên quan về mặt thống kê, được gọi là sự phớt lờ mẫu số (denominator neglect). Điều này xảy ra khi chúng ta lơ đi các thống kê rõ ràng để chọn những hình ảnh sống động trong tâm trí có thể ảnh hưởng tới quyết định của chúng ta
Ví dụ hai câu sau: “Loại thuốc này sẽ bảo vệ trẻ khỏi căn bệnh X nhưng có 0.001% gây ra biến dạng vĩnh viễn” với “1 trong 100,000 trẻ dùng thuốc này sẽ bị biến dạng vĩnh viễn.” Cho dù ý nghĩa của 2 câu như nhau, câu sau gợi lên hình ảnh một em bé dị tật và có tác động lớn hơn, và đó là lý do nó làm chúng ta chần chừ hơn khi áp dụng loại thuốc này.
10: Không phải Robot: Tại sao con người không quyết định dựa trên tư duy lý trí
Các cá nhân đưa ra lựa chọn như thế nào?
Từ lâu, một nhóm các nhà kinh tế có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đã cho rằng con người ra quyết định dựa trên lập luận lý tính. Họ cho rằng mọi người đều lựa chọn theo lý thuyết lợi ích, khẳng định rằng khi các cá nhân ra quyết định, họ chỉ nhìn vào những dữ liệu lý tính và chọn phương án có tổng lợi ích lớn nhất.
Ví dụ, thuyết lợi ích sẽ đưa ra kiểu câu như sau: nếu bạn thích cam hơn kiwis, thì bạn sẽ chọn cơ hội 10% có được quả cam hơn cơ hội 10% có được quả kiwis.
Dĩ nhiên phải không?
Nhóm nhà kinh tế học có sức ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực này tập trung tại Trường kinh tế Chicago và học giả nổi tiếng nhất của họ là Milton Friedman. Sử dụng thuyết lợi ích, trường phái Chicago cho rằng các cá nhân trên thị trường là những người ra quyết định siêu lí tính, những kẻ mà nhà kinh tế học Richard Thaler và luật sư Cass Sunstein sau này gọi là Thương gia (Econs). Với Thương gia, mỗi cá nhân hành xử hệt như nhau, đánh giá hàng hóa và dịch vụ dựa trên các nhu cầu duy lý của họ. Hơn nữa, người kinh tế cũng đánh giá tài sản của mình một cách lý trí, chỉ quan tâm tới mức lợi ích nó đem lại cho họ.
Vậy nên nếu tưởng tượng hai người, John và Jenny, đều có tổng tài sản là 5 triệu đô. Theo thuyết lợi ích, vì họ có cùng số tiền nên họ sẽ hạnh phúc ngang nhau.
Nhưng nếu chúng ta phức tạp hóa vấn đề hơn một chút? Giả dụ tài sản 5 triệu đô là kết quả của một ngày đánh bạc, và hai người có điểm xuất phát khác nhau: John ban đầu chỉ có 1 triệu đô và cuối cùng có được số tiền gấp 5, trái lại Jenny khởi đầu với 9 triệu đô và lỗ chỉ còn 5 triệu đô. Liệu bạn có vẫn nghĩ John và Jenny đều hạnh phúc ngang nhau với số tiền 5 triệu đô?
Rõ ràng, chúng ta đánh giá mọi thứ không chỉ dựa vào lợi ích thuần túy của nó.
Như ta sẽ thấy trong phần tiếp, bởi vì con người không nhìn lợi ích một cách lý trí như thuyết lợi ích khẳng định, ta có thể đưa ra những quyết định lạ lùng và phi lý trí.
11: Trực giác: tại sao thay vì quyết định dựa trên các cân nhắc lý tính, ta thường bị lung lay bởi các yếu tố cảm xúc.
Nếu thuyết lợi ích là sai, vậy thuyết nào đúng?
Một phương án khác là thuyết triển vọng (prospect theory), do chính tác giả sách phát triển
Thuyết triển vọng của Kahneman thách thức thuyết lợi ích bằng cách chỉ ra rằng khi đưa ra lựa chọn, ta không phải lúc nào cũng hành động một cách có lý trí nhất.
Tưởng tượng có hai kịch bản: Trong trường hợp 1, bạn được cho $1000 và phải chọn giữa: 100% nhận được $500 hoặc đánh cược 50/50 để thắng $1000 nữa.Trong trường hợp 2, bạn được cho $2000 và phải chọn giữa: 100% mất $500 hoặc đánh cược 50/50 mất $1000.
Nếu chúng ta chỉ quyết định lý trí, thì bạn sẽ lựa chọn giống nhau trong hai trường hợp. Nhưng thực tế không phải thế. Trong ví dụ đầu, đa số mọi người sẽ chọn giải pháp an toàn là lấy $500, nhưng trong trường hợp 2, đa số lại đánh liều.
Thuyết triển vọng giúp giải thích tại sao lại có sự khác biệt. Nó nhấn mạnh ít nhất hai lý do tại sao ta không hành động lý trí. Cả hai đều đều cập đến tính sợ thua lỗ của ta – thực tế là ta sợ thua lỗ hơn là nhận được lời.
Lý do đầu tiên là ta định giá mọi thứ dựa trên các điểm tham chiếu. Khởi đầu với mức $1000 hay $2000 trong hai kịch bản thay đổi khả năng đánh bạc của ta, bởi vì điểm khởi đầu tác động tới cách ta định giá vị thế của mình. Điểm tham chiếu trong trường hợp 1 là $1000 và $2000 trong trường hợp 2, nghĩa là nếu còn $1500, thì là lãi với TH1 nhưng là lỗ trong TH2. Kể cả lý luận rõ ràng phi lý (vì kiểu gì bạn cũng có $1500), ta hiểu giá trị thông qua điểm xuất phát cũng như giá trị khách quan tại thời điểm đó.
Thứ hai, ta bị ảnh hưởng bởi nguyên tắc giảm độ nhạy (diminishing sensitivity principle): giá trị ta nhìn nhận có thể khác với giá trị thực của nó. Ví dụ, mất tiền từ $1000 xuống $900 không cảm thấy tệ bằng việc mất tiền từ $200 xuống $100, bất kể khoản bị mất có giá trị ngang nhau. Tương tự trong ví dụ của ta, giá trị khoản lỗ được nhìn nhận khi mất tiền từ $1500 xuống $1000 sẽ lớn hơn khoản mất từ $2000 xuống $1500.
12: Hình ảnh sai: tại sao tâm lý lại xây dựng một hình ảnh hoàn chỉnh để giải thích thế giới, nhưng chúng thường dẫn đến tự tin thái quá và sai lầm.
Để hiểu các tình huống, tâm trí ta sử dụng sự nhất quán nhận thức (cognitive coherence); ta xây dựng những hình ảnh tâm trí (mental image) hoàn chỉnh để giải thích các ý tưởng và khái niệm. Ví dụ, ta có rất nhiều hình ảnh trong não về thời tiết. Giả dụ ta có hình ảnh về thời tiết mùa hè, có thể một bức tranh về mặt trời chói chang, nóng bỏng làm ta đổ mồ hôi nhễ nhại.
Ngoài việc giúp ta hiểu sự vật, ta cũng dựa vào những hình ảnh này để ra quyết định.
Khi ra quyết định, ta tham khảo những hình ảnh này và xây dựng giả định và kết luận dựa trên chúng. Ví dụ, nếu ta muốn biết nên mặc đồ gì vào mùa hè, ta dựa các quyết định của mình vào hình ảnh trong tâm trí ta về trời mùa hạ.
Vấn đề là ta quá tin vào những hình ảnh này. Kể cả khi các thống kê và dữ liệu hiện có phủ nhận những bức ảnh tâm trí này, ta vẫn sẽ để nó chỉ dẫn mình. Người dự báo thời tiết có thể cho rằng ngày nay sẽ lạnh, nhưng bạn vẫn quần đùi và áo phông, như bức ảnh tâm trí về mùa hè nói cho bạn. Do đó bạn có thể co ro ngoài trời.
Tóm tắt, ta quá tự tin vào những hình ảnh tâm trí sai lầm. Nhưng có 1 số cách để khắc phục vấn đề này và đưa ra các dự đoán tốt hơn.
1 cách để tránh lỗi là tận dụng phương pháp dự đoán theo lớp tham chiếu (reference class forecasting). Thay vì phán xét dựa trên hình ảnh tâm trí chung chung, hãy sử dụng những dữ liệu lịch sử để dự đoán chính xác hơn. Ví dụ, hãy nghĩ về những lần bạn ra ngoài mùa hè mà trời lại rét. Lúc đó bạn mặc gì?
Ngoài ra, bạn có thể tạo ra một chiến lược phòng thân (risk policy) dài hạn, để lên kế hoạch cho những biện pháp cụ thể trong cả trường hợp dự báo chuẩn và sai. Trong qua sự chuẩn bị và bảo vệ, bạn có thể dựa vào chứng cứ thay vì những hình ảnh tâm trí và đưa ra dự báo chính xác hơn. Trong trường hợp thời tiết của ta, điều này có nghĩa là hãy mang theo một chiếc áo len cho chắc.
Tổng kết
Hệ thống tư duy nhanh và chậm của chúng ta phản ánh sự phân chia trong tâm trí. Hệ thống 1 hoạt động tự động và tiết kiệm năng lượng; Hệ thống 2 hoạt động chi tiết hơn và đòi hỏi sự tập trung cao hơn. Cách suy nghĩ và hành động của chúng ta thay đổi tùy thuộc vào hệ thống nào đang kiểm soát trí não tại thời điểm đó.
Nguồn: https://goo.gl/Cn1xNK