
Bơ thực vật là thuật ngữ chung chỉ về các loại bơ có nguồn gốc từ thực vật và được sản xuất từ dầu thực vật qua quá trình hydro hóa để tạo thành dạng cứng hoặc dẻo và có thể đóng thành bánh. Trong quá trình hydro hóa, các axit béo không no (chưa bão hòa) chuyển thành axit béo no (bão hòa) và một số axit béo có thể bị chuyển vị (dạng trans).
Một định nghĩa khác cho bơ thực vật là thành phần nhũ tương được chế biến từ một hỗn hợp của nhiều loại dầu mỡ có nguồn gốc từ động vật hoặc thực vật, nước, sữa tách kem và một số chất phụ gia khác. Bơ thực vật và bơ là hai loại bơ phổ biến nhất hiện nay, với quan điểm rằng sử dụng bơ thực vật sẽ an toàn hơn cho tim mạch so với bơ thông thường.
Tên gọi sản phẩm
Margarine là một loại bơ thực vật, xuất phát từ oleomargarine của Hippolyte và được sáng chế vào năm 1871. Margarine ngày nay là thuật ngữ chung để chỉ các chất thay thế cho bơ, được sản xuất từ dầu thực vật như dầu hoa hướng dương và dầu đậu nành, nổi bật là bơ thực vật tại Việt Nam.
Lịch sử margarine

Năm 1813, Michel Eugène Chevreul phát hiện ra hình thức sơ khai của bơ thực vật.
Năm 1869, Napoleon III ra chiếu yêu cầu tìm ra chất thay thế cho bơ, với mong muốn có một lựa chọn ăn ngon nhưng rẻ hơn và dễ dàng sản xuất để cung cấp cho công nhân và binh lính.
Đáp lại lời kêu gọi đó, Hippolyte Mège-Mouriés, nhà hóa học người Pháp, đã nghiên cứu và phát minh ra oleomargarine từ sự kết hợp giữa mỡ bò và dạ dày heo. Oleomargarine được tạo ra từ axit margaric và axit oleic, mang lại hương vị thơm ngon.
Mặc dù ngon nhưng sự phát triển và lan truyền của loại thực phẩm mới này gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở Mỹ và Úc, nơi người dân không được phép sử dụng margarine màu vàng cho đến những năm 1960.
Trong một bài tiểu luận được đăng trên báo 'Sự thật' ngày 20 tháng 7 năm 1912, Lenin phân tích về việc tiêu thụ margarine ở châu Âu và chỉ ra rằng, người tiêu dùng chủ yếu là những người nghèo không có khả năng mua bơ thật. Ở Đan Mạch, một quốc gia xuất khẩu bơ lớn, nông dân bán bơ để kiếm tiền và mua margarine để sử dụng.
Tác dụng của bơ thực vật

Bơ thực vật được làm từ dầu thực vật nên không có cholesterol. Ngoài ra, nó cũng có nhiều chất béo lành mạnh hơn bơ thường, giúp giảm mật độ cholesterol xấu. Ngược lại, bơ động vật chứa cholesterol và nhiều chất béo bão hòa. Ý tưởng sử dụng bơ thực vật thay thế bơ động vật từ thời Napoleon III vẫn được duy trì và có giá trị, nhưng cần sử dụng có độ chín và không lạm dụng, gây hậu quả cho sức khỏe.
Khuyến cáo không nên tiêu thụ quá nhiều bơ thực vật, chỉ nên sử dụng cho sản xuất thực phẩm như mỳ ăn liền, bánh kẹo. Nhãn mác các sản phẩm như margarine thường ghi '0' axit béo chuyển hóa, do chế biến bằng phương pháp hydro hóa, có thể gây ra các hợp chất béo không lành mạnh. Bơ thực vật càng cứng, càng có nhiều chất béo chuyển hóa - vì vậy, loại bơ dạng thanh thường chứa nhiều chất béo hơn loại bơ dạng ống. Tương tự chất béo bão hòa, chất béo chuyển hóa làm tăng cholesterol trong máu và nguy cơ bệnh tim.
Giá trị dinh dưỡng cho mỗi 100 g (3,5 oz) | |
---|---|
Năng lượng | 2.627 kJ (628 kcal) |
Carbohydrat | 1.5 g |
Protein
| 0.3 g |
Vitamin | Lượng %DV |
Vitamin A | 3571 IU |
Thiamine (B1) | 4% 0.052 mg |
Riboflavin (B2) | 2% 0.025 mg |
Acid pantothenic (B5) | 0% 0.001 mg |
Vitamin B6 | 0% 0.003 mg |
Folate (B9) | 0% 1 μg |
Vitamin C | 0% 0 mg |
Vitamin E | 37% 5.6 mg |
Chất khoáng | Lượng %DV |
Magiê | 0% 2 mg |
Mangan | 1% 0.014 mg |
Phốt pho | 1% 10 mg |
Kali | 2% 46 mg |
Natri | 30% 700 mg |
Tỷ lệ phần trăm được ước tính dựa trên khuyến nghị Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành, ngoại trừ kali, được ước tính dựa trên khuyến nghị của chuyên gia từ Học viện Quốc gia. |