Sâu cuốn lá chuối | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Arthropoda |
Lớp (class) | Insecta |
Bộ (ordo) | Lepidoptera |
Họ (
| Hesperiidae |
Phân họ (subfamilia) | Hesperiinae |
Chi (genus) | Erionota |
Loài (species) | E. thrax |
Danh pháp hai phần | |
Erionota thrax (Linnaeus, 1767) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Sâu cuốn lá chuối, với tên khoa học Erionota thrax, thuộc họ Bướm nhảy. Loài bướm này phân bố từ Ấn Độ qua tây nam châu Á đến Papua New Guinea và miền nam Trung Quốc. Nó đã lan rộng tới các đảo Thái Bình Dương như quần đảo Salomon và Hawaii, cũng như Mauritius.
Các đặc điểm
Bướm có chiều dài cơ thể từ 30–35 mm và sải cánh rộng từ 70–80 mm. Toàn thân có màu nâu sẫm, với đầu và ngực được phủ lớp vảy màu nâu xám. Mắt kép lớn, hình bán cầu và râu đầu dạng móc câu. Cánh trước có màu nâu đậm, với túm lông màu vàng tro gần gốc và các đốm vàng hình chữ nhật trên cánh. Bướm sống khoảng 2 tuần và trong thời gian này, một con cái có thể đẻ khoảng 200 trứng. Sải cánh của bướm dài từ 70–77 mm và có nhiều lứa mỗi năm.
Trứng có màu trắng, hình bán cầu, đường kính từ 1,5–2 mm, với đỉnh hơi thon và lõm xuống. Trứng có các đường vân xiên nổi lên dọc theo trứng. Trứng được đẻ rải rác hoặc thành từng hàng từ 2-8 cái ở bìa lá. Khi gần nở, trứng chuyển sang màu đen. Thời gian ủ trứng là từ 5-7 ngày.
Sâu mới nở có màu trắng sữa và ăn hết vỏ trứng ngay sau khi ra đời. Đốt ngực đầu tiên và thứ hai nhỏ, thắt lại như cổ chai; đốt thứ ba đến thứ năm dần to ra, đốt thứ sáu phát triển bình thường. Sâu có 3 đôi chân ngực kém phát triển, nhưng 4 đôi chân bụng rất phát triển. Sâu trải qua 5 tuổi và phát triển trong khoảng 14-20 ngày.
Nhộng có màu xám xanh và phủ lớp phấn trắng bên ngoài, dài từ 35–40 mm, với gai đuôi hình móc câu cứng. Thời gian nhộng kéo dài từ 7-10 ngày.
Ấu trùng ăn lá của các loài Musa, đặc biệt là loài Musa textilis. Loài này cũng được tìm thấy trên dừa và các loài dừa cọ khác.
Khi mới nở, sâu non bắt đầu ăn lớp biểu bì của lá, sau đó cắt phiến lá thành một đường dọc theo chiều dài của lá gần gân chính. Sâu tiếp tục nhả tơ để cuốn phần lá bị cắn thành tổ hình ống, nằm bên trong để ăn phần lá cuốn. Khi tổ sâu gần hết thức ăn hoặc bị khô, sâu sẽ ra ngoài và tạo tổ mới lớn hơn. Trong suốt quá trình sống, sâu thải phân ngay trong tổ, tạo thành các cục lớn cỡ hạt mè hoặc hạt đậu xanh, có màu xanh đen.
Biện pháp phòng trừ
Tương tự như các loại sâu khác, lớp da của sâu cuốn lá chuối có các lỗ khí. Khi vôi bột tiếp xúc với các lỗ này, khả năng hô hấp của sâu bị giảm. Sâu sẽ hít phải nhiều vôi bột hơn khi cố gắng hô hấp. Vôi bột phản ứng với nước tạo ra nhiệt độ từ 100 – 150 độ C, gây bỏng đột ngột cho sâu và làm sâu chết nhanh chóng. Vôi bột không gây hại cho môi trường sinh thái và có thể tiêu diệt một số loài sâu hại khi phun với liều lượng nhỏ.
Các phân loài
- Erionota thrax thrax (Indonesia)
- Erionota thrax mindana Evans, 1941 (nam và trung Philippines)
- Erionota thrax hasdrubal Fruhstorfer, 1910 (bắc Moluccas)
- Erionota thrax alexandra De Long et Treadaway, 1993 (Luzon, miền bắc Philippines)
Ghi chú
Tài nguyên bên ngoài
Tài liệu liên quan đến Erionota thrax trên Wikimedia Commons