Milinković-Savić thi đấu cho Serbia tại FIFA World Cup 2018 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Sergej Milinković-Savić | ||
Ngày sinh | 27 tháng 2, 1995 (29 tuổi) | ||
Nơi sinh | Lleida, Tây Ban Nha | ||
Chiều cao | 1,92 m (6 ft 3+1⁄2 in) | ||
Vị trí | Tiền vệ | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Al Hilal | ||
Số áo | 22 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
Grazer | |||
2006–2013 | Vojvodina | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2013–2014 | Vojvodina | 13 | (3) |
2014–2015 | Genk | 24 | (5) |
2015–2023 | Lazio | 267 | (57) |
2023– | Al Hilal | 30 | (11) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2013–2014 | U-19 Serbia | 14 | (4) |
2014–2015 | U-20 Serbia | 11 | (1) |
2014–2017 | U-21 Serbia | 12 | (4) |
2017– | Serbia | 51 | (9) |
Thành tích huy chương | |||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 23:57, 23 tháng 5 năm 2024 (UTC) ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 21:04, 25 tháng 3 năm 2024 (UTC) |
Sergej Milinković-Savić (tiếng Serbia: Сергеј Милинковић-Савић, phát âm [serɡêj milǐːŋkoʋitɕ sǎːʋitɕ]; sinh ngày 27 tháng 2 năm 1995), thường được gọi là Sergej, là một cầu thủ bóng đá người Serbia hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Al Hilal tại Saudi Professional League và đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia.
Tuổi thơ
Milinković-Savić lớn lên trong một gia đình thể thao ở Lleida, Catalonia. Cha của anh, ông Nikola Milinković, đã chơi bóng đá chuyên nghiệp, trong khi mẹ của anh, bà Milana Savić, là một vận động viên bóng rổ chuyên nghiệp.
Em trai của anh, Vanja, cũng là một cầu thủ bóng đá và hiện đang chơi ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Torino tại Serie A.
Đời sống câu lạc bộ
Vojvodina
Milinković-Savić gia nhập học viện bóng đá của Vojvodina, nơi anh trở thành một trong những tiền vệ nổi bật của đội trẻ, cùng với Mijat Gaćinović và Nebojša Kosović, giành được hai chức vô địch trẻ Quốc gia liên tiếp. Anh đã ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ vào ngày 26 tháng 12 năm 2012, với thời hạn ba năm.
Trận đấu chuyên nghiệp đầu tiên của Milinković-Savić là vào ngày 23 tháng 11 năm 2013, trong trận thua 3–0 trước câu lạc bộ Jagodina. Anh ghi bàn thắng đầu tiên trong trận hòa 1–1 trên sân của câu lạc bộ Spartak Subotica vào ngày 9 tháng 3 năm 2014. Trong mùa giải 2013–14, Milinković-Savić đã thi đấu khoảng 13 trận và ghi 3 bàn thắng, đồng thời giúp Vojvodina giành chức vô địch Cúp Serbia 2013–14 sau 25 năm chờ đợi.
Genk
Vào tháng 6 năm 2014, Milinković-Savić đã gia nhập câu lạc bộ Bỉ Genk với hợp đồng kéo dài 5 năm và được trao chiếc áo số 20. Anh ra sân lần đầu trong trận hòa 1–1 trước Cercle Brugge vào ngày 2 tháng 8 năm 2014. Bàn thắng đầu tiên của Milinković-Savić cho Genk đến trong trận hòa 1–1 trước Lokeren vào ngày 18 tháng 1 năm 2015. Tổng cộng, anh ghi được 5 bàn trong 24 lần ra sân trong mùa giải 2014–15.
Lazio
Vào ngày 31 tháng 7 năm 2015, Milinković-Savić đã chuyển đến câu lạc bộ Ý Lazio. Anh có trận ra mắt trong chiến thắng 1–0 trên sân nhà trước Bayer Leverkusen ở trận lượt đi vòng play-off Champions League vào ngày 18 tháng 8 năm 2015. Bàn thắng đầu tiên của anh cho Lazio được ghi trong trận hòa 1-1 với Dnipro Dnipropetrovsk ở UEFA Europa League vào ngày 17 tháng 9 năm 2015. Milinković-Savić ghi bàn đầu tiên tại Serie A trong trận thắng 3-1 trước Fiorentina vào ngày 9 tháng 1 năm 2016. Trong mùa giải đầu tiên, anh có 35 lần ra sân và ghi 3 bàn cho Lazio ở tất cả các giải đấu.
Trong mùa giải thứ hai tại Lazio, Milinković-Savić đã ghi 7 bàn thắng trong tổng số 39 lần ra sân, bao gồm cả giải đấu và các trận đấu cúp.
Vào ngày 5 tháng 12 năm 2021, Milinković-Savić đã trở thành tiền vệ ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử Lazio sau khi ghi bàn vào lưới Sampdoria. Anh vượt qua Pavel Nedvěd, người đã giữ kỷ lục cũ với 33 bàn thắng trong suốt hơn một thập kỷ.
Al Hilal
Vào ngày 12 tháng 7 năm 2023, câu lạc bộ Ả Rập Xê Út Al Hilal đã công bố việc ký hợp đồng với Milinković-Savić trong thời hạn 3 năm, với mức phí chuyển nhượng được đồn đoán là 40 triệu euro.
Sự nghiệp quốc tế
Đội trẻ
Milinković-Savić đã tham gia cùng đội U19 Serbia tại Giải vô địch bóng đá U-19 châu Âu 2013, và đội U19 Serbia đã giành chức vô địch. Anh chơi đủ 90 phút trong 4 trận đấu, bao gồm trận chung kết thắng 1–0 trước U19 Pháp. Tiếp theo, anh cũng thi đấu tại Giải vô địch bóng đá U-19 châu Âu 2014, nhưng đội của anh bị U19 Bồ Đào Nha loại ở bán kết qua loạt sút luân lưu, với Milinković-Savić đá hỏng quả penalty quyết định.
Mùa hè năm sau, Milinković-Savić là một trong những nhân tố quan trọng của đội U20 Serbia tại Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2015, giúp đội giành chức vô địch. Anh thi đấu 6 trận trong tổng số 7 trận và ghi một bàn thắng vào lưới U20 Mali ở vòng bảng. Với phong độ ấn tượng, anh đã nhận giải quả bóng Đồng.
Vào mùa hè năm 2017, Lazio đã cấm Milinković-Savić tham gia Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2017.
Đội tuyển quốc gia
Vào tháng 10 năm 2015, Milinković-Savić lần đầu được triệu tập lên đội tuyển Serbia dưới thời huấn luyện viên Radovan Ćurčić cho các trận vòng loại Euro 2016 gặp Albania và Bồ Đào Nha, nhưng không được thi đấu. Đến tháng 5 năm 2016, anh được gọi lên tuyển bởi huấn luyện viên Slavoljub Muslin cho các trận giao hữu với Síp, Israel và Nga. Tuy nhiên, sau khi không được thi đấu trong hai trận đầu tiên, Milinković-Savić rời đội tuyển theo thỏa thuận với huấn luyện viên Muslin, người cảm thấy các cầu thủ khác phù hợp hơn với chiến thuật của ông.
Ngày 30 tháng 10 năm 2017, Huấn luyện viên mới Mladen Krstajić đã công bố việc triệu tập Milinković-Savić vào đội hình cho các trận giao hữu với Trung Quốc và Hàn Quốc.
Milinković-Savić được gọi tham dự World Cup 2018 tại Nga, nơi anh đã ra sân trong cả ba trận vòng bảng gặp Brasil, Thụy Sĩ và Costa Rica. Đội tuyển Serbia kết thúc giải đấu ở vị trí thứ ba vòng bảng.
Ngày 8 tháng 10 năm 2020, Milinković-Savić ghi cú đúp quốc tế đầu tiên của mình, giúp đội tuyển Serbia chiến thắng 2-1 trước Na Uy trong trận bán kết play-off vòng loại Euro 2020.
Tại World Cup 2022 ở Qatar, anh chỉ có một bàn thắng duy nhất trong trận hòa 3-3 với Cameroon.
Phong cách chơi bóng
Sergej Milinkovic-Savic được công nhận là một 'tiền vệ toàn diện' theo tiêu chuẩn hiện đại. Anh có khả năng kiểm soát tốt khu vực nửa sân nhà và thể hiện tầm ảnh hưởng rõ rệt trong trận đấu. Milinkovic-Savic sở hữu khả năng đọc trận đấu xuất sắc và định vị rất chính xác. Anh thường được so sánh với những danh thủ nổi tiếng như Dejan Stanković, Zinedine Zidane và Yaya Touré. Các cổ động viên của Lazio còn gọi anh là 'thống đốc'. Ngoài ra, Savic còn có kỹ năng không chiến và thể lực vượt trội. Anh thường xuyên sút xa và hỗ trợ đồng đội trong việc xây dựng lối chơi và ghi bàn.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
- Tính đến ngày 23 tháng 5 năm 2024
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch | Cúp | Châu lục | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Vojvodina | 2013–14 | Serbian SuperLiga | 13 | 3 | 3 | 1 | 0 | 0 | — | 16 | 4 | |
Genk | 2014–15 | Belgian Pro League | 24 | 5 | 0 | 0 | — | — | 24 | 5 | ||
Lazio | 2015–16 | Serie A | 25 | 1 | 2 | 0 | 8 | 2 | 0 | 0 | 35 | 3 |
2016–17 | 34 | 4 | 5 | 3 | — | — | 39 | 7 | ||||
2017–18 | 35 | 12 | 4 | 0 | 8 | 2 | 1 | 0 | 48 | 14 | ||
2018–19 | 31 | 5 | 5 | 2 | 5 | 0 | 0 | 0 | 41 | 7 | ||
2019–20 | 37 | 7 | 0 | 0 | 4 | 1 | 1 | 0 | 42 | 8 | ||
2020–21 | 32 | 8 | 2 | 0 | 7 | 0 | — | 41 | 8 | |||
2021–22 | 36 | 9 | 2 | 0 | 9 | 2 | — | 47 | 11 | |||
Tổng cộng | 267 | 57 | 23 | 5 | 49 | 7 | 2 | 0 | 341 | 69 | ||
Al Hilal | 2023–24 | Saudi Pro League | 30 | 11 | 4 | 0 | 8 | 1 | 7 | 2 | 49 | 14 |
Tổng cộng sự nghiệp | 334 | 76 | 30 | 6 | 57 | 8 | 9 | 2 | 429 | 92 |
Quốc tế
- Tính đến ngày 8 tháng 6 năm 2024
Đội tuyển quốc gia | Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
Serbia | 2017 | 2 | 0 |
2018 | 8 | 0 | |
2019 | 5 | 0 | |
2020 | 5 | 3 | |
2021 | 8 | 2 | |
2022 | 11 | 2 | |
2023 | 8 | 0 | |
2024 | 4 | 2 | |
Tổng cộng | 51 | 9 |
Ghi bàn
- Cập nhật đến ngày 8 tháng 6 năm 2024.
# | Ngày | Địa điểm | Trận thứ | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | 8 tháng 10 năm 2020 | Sân vận động Ullevaal, Oslo, Na Uy | 17 | Na Uy | 1–0 | 2–1 | Vòng loại UEFA Euro 2020 |
2 | 2–1 | ||||||
3 | 14 tháng 10 năm 2020 | Sân vận động Türk Telekom, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ | 18 | Thổ Nhĩ Kỳ | 1–0 | 2–2 | UEFA Nations League 2020–21 |
4 | 7 tháng 9 năm 2021 | Sân vận động Aviva, Dublin, Ireland | 24 | Cộng hòa Ireland | 1–0 | 1–1 | Vòng loại FIFA World Cup 2022 |
5 | 11 tháng 11 năm 2021 | Sân vận động Rajko Mitić, Belgrade, Serbia | 27 | Qatar | 4–0 | 4–0 | Giao hữu |
6 | 5 tháng 6 năm 2022 | 32 | Slovenia | 2–1 | 4–1 | UEFA Nations League 2022–23 | |
7 | 28 tháng 1 năm 2022 | Sân vận động Al Janoub, Doha, Qatar | 38 | Cameroon | 2–1 | 3–3 | FIFA World Cup 2022 |
8 | 25 tháng 3 năm 2024 | AEK Arena, Larnaca, Síp | 49 | Síp | 1–0 | 1–0 | Giao hữu |
9 | 8 tháng 6 năm 2024 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | 51 | Thụy Điển | 1–0 | 3–0 |
Danh hiệu đạt được
Câu lạc bộ tham gia
Vojvodina
- Cúp Serbia: Mùa giải 2013–14
Lazio
- Siêu cúp Italia: 2017
Danh hiệu quốc tế
U-19 Serbia
- Vô địch Giải vô địch U-19 châu Âu: 2013
U-20 Serbia
- Vô địch Giải vô địch U-20 thế giới: 2015
Danh hiệu cá nhân
- Quả bóng Đồng tại Giải vô địch U-20 thế giới: 2015
Chú thích
Liên kết bên ngoài
- Hồ sơ cầu thủ trên trang đội tuyển quốc gia Serbia
- Sergej Milinković-Savić – Thành tích tại FIFA
- Sergej Milinković-Savić – Thành tích tại UEFA
S.S. Lazio – đội hình hiện tại |
---|