SIM (viết tắt của Subscriber Identity Module, tạm dịch: module nhận dạng chủ thuê bao) là một vi mạch tích hợp IC có khả năng lưu trữ an toàn thông tin của người đăng ký thuê bao quốc tế (International Mobile Subscriber Identity IMSI) bao gồm số thuê bao và các thông tin liên quan để xác định và chứng thực người chủ thuê bao trên thiết bị di động. Ngoài ra, nhiều thẻ SIM còn có khả năng lưu trữ thêm thông tin liên lạc. SIM luôn được sử dụng trong các điện thoại hỗ trợ công nghệ GSM; đối với các điện thoại sử dụng công nghệ CDMA chỉ cần thêm tai nghe hỗ trợ LTE. Thẻ SIM cũng được sử dụng trong các điện thoại vệ tinh, đồng hồ thông minh, máy tính hoặc cả camera.
Một thuê bao di động gồm thiết bị di động đầu cuối và một thẻ SIM. Nhờ có SIM, người dùng có thể thay đổi điện thoại di động dễ dàng mà không cần sự hỗ trợ từ nhà cung cấp dịch vụ di động.
Thẻ SIM có bốn loại kích thước: loại lớn (1FF), loại nhỏ (2FF), loại micro (3FF), loại nano (4FF). ID-1 SIM có kích thước như thẻ tín dụng, được sử dụng trong thời kỳ đầu của mạng di động. Còn Plug-in SIM là loại SIM mà ngày nay chúng ta thường sử dụng.
Ngoài vai trò chính là nhận dạng thuê bao di động (được xác định bởi số IMSI – International Mobile Subscriber Identity), SIM còn chứa các dữ liệu khác của thuê bao như các mã số PIN, PIN2, PUK, PUK2, số trung tâm dịch vụ nhắn tin SMS, danh bạ điện thoại… Các loại SIM cũ lưu được 125 số điện thoại, SIM thông thường cho phép lưu đến 250 số điện thoại, Super SIM có thể lưu 750 số điện thoại.
Quá khứ
Thế hệ đầu tiên của SIM - full-size SIM (1FF) - đã được sản xuất và sử dụng từ năm 1991.
Tại Việt Nam
Hiện tại, tại Việt Nam có 5 nhà mạng sử dụng công nghệ này gồm Mobifone, Vinaphone, Viettel, Vietnamobile và Gtel.
Các mạng di động sử dụng công nghệ WCDMA (Wideband CDMA) và sử dụng thẻ SIM tại Việt Nam hiện nay bao gồm S-Fone. Mạng này cung cấp 2 hình thức sử dụng là trực tiếp qua máy và sử dụng thẻ SIM.