Nghêu | |
---|---|
Một con nghêu | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Mollusca |
Lớp (class) | Bivalvia |
Bộ (ordo) | Veneroida |
Liên họ (superfamilia) | Veneroidea |
Họ (familia
| Veneridae |
Sò điệp hay ngao là tên gọi dùng để chỉ các loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ (nhuyễn thể) thuộc họ Veneridae chuyên sống ở vùng nước ven biển có độ mặn cao, nhiều đất cát sỏi, phân bố khá phổ biến ở vùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Sò điệp có thân hình tròn, màu trắng hoặc vàng nhạt. Đây là loài hải sản có giá trị kinh tế cao, dễ nuôi, không tốn nhiều công chăm sóc. Dù quá trình trưởng thành của sò điệp có rất nhiều rủi ro, nhưng với số lượng trứng nhiều, nên loài sò điệp hiện đã trở thành vật nuôi khá dễ dàng, ít tốn kém.
Đặc điểm sinh học
Vùng sinh sống
Sò điệp thích sống ở bãi triều trên vùng biển cạn. Chất đáy nơi sò điệp phân bố là cát pha bùn (tỷ lệ cát thích hợp là 60 - 70%) hay sống vùi trong đáy cát bùn của vùng triều, chủ yếu ở giải triều giữa và dưới triều, có thể gặp ở độ sâu 4m. Trong tự nhiên chưa gặp loài này ở vùng đáy bùn, đáy rắn chắc.
Chế độ dinh dưỡng
Sò điệp là động vật ăn lọc, không có khả năng chủ động săn mồi và chọn lọc thức ăn, 90% thức ăn là mùn bã hữu cơ, còn lại là sinh vật phù du-chủ yếu là tảo silic, tảo giáp, tảo lam, tảo lục và tảo kim. Sò điệp ăn và tăng trưởng mạnh từ tháng thứ hai đến tháng thứ năm. Mưa lũ làm giảm độ mặn, khiến sò điệp ít ăn và chậm lớn. Các tháng mùa mưa lũ và sau mùa lũ có độ muối nhạt, chúng phải ngậm vỏ, không ăn một thời gian dài trong ngày, độ no thấp.
Trong ống tiêu hoá của sò điệp thấy: mùn bã hữu cơ 75-90%, còn lại là sinh vật phù du chủ yếu là tảo Silic phù du: Bacillariopyceae (90-95%), tảo giáp Dinophyceae (3,3-6,6%), tảo lam, tảo lục, tảo kim mỗi loại từ 0,8-1,0%.
Sinh trưởng
Sò điệp sinh trưởng theo mùa, đặc biệt là vào mùa mưa, chất hữu cơ từ các cửa sông đổ ra nhiều, sò điệp mau lớn, sinh trưởng nhanh. Sò điệp là loài phân tính đực cái riêng, chưa gặp hiện tượng lưỡng tính. Khi tuyến sinh dục thành thục, nó căng lên như hai múi bưởi, màu nâu nhạt. Số trứng trong noãn sào con cái 3.168.000 - 8.650.000, trung bình 5.362.000 trứng trong một cá thể.
Đây là loài sinh sản quanh năm, nhưng tập trung vào tháng 1 đến tháng 2 và tháng 7 đến tháng 8. Tỷ lệ đực cái trung bình 1:1, 5. Một con sò điệp cái có thể đẻ hàng triệu trứng một lần. Đẻ trung bình 5 triệu trứng/cá thể. Ấu trùng sò điệp sống trôi nổi trong nước một thời gian thì hình thành vỏ rồi chìm xuống đáy. Con non sẽ rúc xuống lớp bùn cát khoảng 1 cm.
Sò điệp 'cám' bé bằng nửa hạt gạo, vỏ mỏng, dẹp, nặng 0,04-0,07 g (15.000-25.000 con/kg) vùi sâu xuống cát khoảng 1 cm, lên kiếm ăn theo thủy triều và thường bị sóng cuốn và dòng triều đưa đi tương đối xa, có khi dạt lên cao, bị phơi khô mà chết. Sau khoảng hơn 1 tháng, sò điệp cám lớn thành sò điệp giống, nặng 0,16-0,20 g (5.000-6.000 con/kg), vỏ đã tương đối cứng, có thể đem ươm ở các bãi.
Khi sò điệp tăng trưởng, khối lượng thịt tăng chậm hơn so với vỏ. Cứ 100 kg sò điệp cỡ 35–37 mm (45-50 con/kg), ta thu được 7,7-8,3 kg thịt; nhưng với 100 kg sò điệp to cỡ 49–50 mm (19-21 con/kg) thì chỉ thu được 6,7-7,3 kg thịt.
Kỷ lục về tuổi thọ
Trong tự nhiên, loài sò điệp có thể sống tới 450 năm, gấp 6 lần tuổi thọ của con người. Các nhà khoa học dựa vào số vòng trên vỏ để xác định tuổi. Đã phát hiện một con sò điệp ngoài khơi Iceland sống từ 405 đến 410 tuổi mà không có dấu hiệu lão hóa. Nó được gọi là Con sò điệp nhà Minh (do sinh ra khi nhà Minh trị vì tại Trung Quốc). Các nhà nghiên cứu xác định tuổi của sò điệp này dựa trên số lượng vòng trên vỏ. Trước đây, kỷ lục Guinness cho một con vật sống lâu nhất thuộc về một con sò điệp Bắc Băng Dương được phát hiện năm 1982, có tuổi đời 220 năm.
Giá trị dinh dưỡng
Thịt sò điệp là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, thơm ngon và được ưa thích (chiếm 56% protein tính theo trọng lượng khô). Sò điệp sinh trưởng nhanh, sức sinh sản mạnh, sản lượng khai thác hàng năm cao, phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, trở thành nguồn thu kinh tế quan trọng của ngư dân ven biển Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, cũng cần quản lý khai thác hợp lý để bảo vệ nguồn lợi này.
Các món ăn từ sò điệp rất có lợi cho sức khỏe do giàu chất dinh dưỡng. Trong 100 g thịt sò điệp có 10,8 g protein, 1,6 g chất béo, nhiều khoáng chất như kẽm (180 mg), sắt (24 mg), canxi, mangan, đồng, iod, selen… và các vitamin B1, B6, B12, C. Tuy nhiên, những người có vấn đề về tiêu hóa thường không nên ăn sò điệp.
Sò điệp cũng là nguồn dinh dưỡng quý giá, giúp bổ sung nhiều chất dinh dưỡng và tăng cường sức khỏe. Sò điệp giúp Ngăn chặn bệnh Alzheimer và thiếu máu, Chống viêm khớp, Tăng cường hệ miễn dịch, Điều tiết đường huyết, Bảo vệ răng lợi, Tốt cho tuyến giáp, giàu riboflavin, Tăng cường hoạt động tình dục, giàu kali, Phù hợp cho người ăn kiêng và bệnh tim.
Nghêu là nguyên liệu chế biến nhiều món ngon như bún nghêu chua cay và canh gà nấu nghêu, được ưa chuộng với hấp sả, mắm tỏi ớt hay muối tiêu chanh, hoặc nghêu xốt chua ngọt. Tuy nhiên, cần chú ý đến vệ sinh và chế biến do nhiều loại nghêu có thể tích lũy độc tố tảo ASP, PSP và DSP.
Các loài nghêu
Các món ăn có thể chế biến từ nghêu
- Ruditapes decussatus
- Mercenaria mercenaria
- Venerupis philippinarum
- Mya arenaria
- Spisula solidissima
- Arctica islandica
- Siliqua patula
- Tivela stultorum
- Panopea abrupta hoặc Panope generosa
- Ensis directus
- Nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata)
- Họ Sò (phổ biến chủ yếu ở Indonesia và Singapore)
Thường không được ăn:
- Họ Nuculidae
- Họ Mactridae
- Họ Hến
- Họ Limidae
- Sò tai tượng (Tridacna gigas)
- Chi Corbicula
- Scrobicularia plana
Nuôi nghêu
Mùa nuôi và thời gian nuôi: Nghêu được nuôi thương phẩm suốt năm, tập trung vào tháng 1 đến tháng 3. Thời gian nuôi phụ thuộc vào kích cỡ giống, mật độ thả và điều kiện bãi nuôi. Trong mùa mưa, di chuyển bãi nuôi ra xa hơn, trong mùa nắng di chuyển gần bờ. Khi triều xuống, thu bắt ốc mỡ trơn (Polynices didyma Bottem) và ốc mỡ hoa (Natica maculosa Lamarch) vì chúng là thức ăn chính của nghêu nhỏ. Thu hoạch nghêu khi đạt kích cỡ vừa, sau 8-10 tháng nuôi. Nên chọn thu hoạch vào cuối mùa mưa khi nghêu béo, nặng và ngon. Thu hoạch khi triều rút khi chúng đã ăn no và thải ra các thức ăn thừa, giữ nước để thịt nghêu sạch (ngược lại, khi triều lên, nghêu thường ngậm cát, bùn).