Mặc cho hiện tại đất nước đã thay đổi và phát triển, chúng ta không thể quên đi quãng thời kỳ tăm tối nhất trong lịch sử quốc gia. Đó là thời kỳ mà dân tộc chúng ta bị chìm đắm trong ánh sáng của chế độ thực dân phong kiến, khi mà những kẻ xấu xa, giả dối đã cùng nhau tạo ra một bức tranh xã hội đầy rẫy những tệ nạn. Với sự sắc bén của ngòi bút, Vũ Trọng Phụng đã phê phán thấu đáo xã hội tư bản đô thị đang theo đuổi một con đường sai lầm qua tác phẩm “Số đỏ”. Một số người cho rằng “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng là một tác phẩm mang tính “tấn trò đời” của xã hội Việt Nam thời kỳ thực dân nửa phong kiến. Thực tế, việc phản ánh và phê phán xã hội trong “Số đỏ” mặc dù chưa đạt tới tầm vóc của “Tấn trò đời” (Balzac) nhưng vẫn góp phần không nhỏ vào việc khai thác hiện thực và tác động sâu rộng của tác phẩm với cộng đồng.
Honores de Balzac, được biết đến như một “nhà văn hiện thực lớn” (Engles), đã để lại một di sản văn học vô cùng to lớn với bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời” gồm 97 tập, viết trong thời gian từ 1829 đến 1850. Mặc dù chưa hoàn thành, “Tấn trò đời” vẫn là một bức tranh hiện thực toàn diện, miêu tả một cách sắc nét những mâu thuẫn trong xã hội tư sản Pháp vào nửa đầu thế kỷ 19. Balzac gọi những tác phẩm của mình là những “tragedies humaines” (bi kịch của nhân loại). Điểm chung giữa “Số đỏ” của văn học Việt Nam và “Tấn trò đời” của văn học Pháp là sự phản ánh sâu sắc về xã hội và con người.
“Số đỏ” (1936) là tác phẩm xuất sắc nhất của Vũ Trọng Phụng và được coi là một trong những tác phẩm văn học quan trọng nhất của Việt Nam hiện đại. Với sự dí dỏm, hài hước, “Số đỏ” đã tiết lộ sự thật đắng cay về các phong trào “Âu hóa”, “thể thao” mà bọn thống trị đã khuyến khích và phát triển trong những năm cuối thập kỷ 30. Với hàng loạt những hình ảnh châm biếm, “Số đỏ” đã giúp chúng ta nhìn thấy rõ hình ảnh một xã hội đang suy tàn, đầy tệ hại trong quá khứ. Chương “Hạnh phúc của một tang gia” trong “Số đỏ” đã tạo ra một bức tranh vui nhộn, lóng lánh về sự chết chóc và tang thương, làm nổi bật những mâu thuẫn hài hước giữa các thành viên trong gia đình cụ cố Hồng trước sự mất mát của ông cụ và sự bốc mùi ma quỷ của những người tham dự tang lễ.
Trong “Lão Hạc”, Nam Cao đã viết: “Nếu chúng ta không nỗ lực hiểu biết về những người xung quanh, chúng ta chỉ thấy họ như những kẻ vụng về, ngớ ngẩn, nghèo nàn, xấu xa, không đáng thương... chỉ làm cho chúng ta trở nên lạnh lùng, không bao giờ nhìn nhận họ với lòng trắc ẩn”. Nếu Nam Cao đến với số phận con người với lòng nhân từ, giúp đỡ con người để làm cho người đọc cảm thấy xót xa bên từng trang văn, thì Vũ Trọng Phụng lại lột tả sự “hạnh phúc” đáng khinh bỉ của những kẻ bất hiếu, lố lăng, đã làm cho cảm xúc thiêng liêng nhất trở nên khô héo.
Nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia' thật sự thu hút, làm cho người đọc không thể không quan tâm. Tuy nhiên, đây không phải là một sự thu hút dễ dàng, vô lý mà thực sự phản ánh một sự thật châm biếm: con cháu của gia đình này thực sự hưởng thụ, thậm chí “hạnh phúc” khi cụ tổ qua đời một cách trọng đạng. Họ phấn khích, tràn đầy niềm phấn khích. Ta không thể không lắc đầu cười khi “cái chết kia đã khiến nhiều người cảm thấy hạnh phúc..”, nhưng liệu đó có phải là niềm vui thầm lặng, “mọi người tưng bừng, hạnh phúc đi gửi giấy tờ, gọi người đánh trống, thuê xe tang...”. Đó chỉ là niềm vui phổ biến. Vũ Trọng Phụng đã cố gắng hiểu gia đình này qua từng cá nhân. Ta cảm thông với thói quen muốn nổi bật của cụ cố Hồng, “ngơ ngác cho đến lúc cụ mặc trang phục hòa nhạc, cầm gậy...”, đau lòng vì một “ước mơ” nhỏ bé là tự biến mình thành một phần trong đoàn quần để “được mọi người chú ý...”. Sau đó ông thích thú khi nhận thêm tiền, ông Văn Minh “hào hứng với việc được nhận giấy báo cáo đó sẽ bắt đầu thời gian thực tập”, cậu Tú Tân “hạnh phúc vì có cơ hội thể hiện tài năng chụp ảnh. Vũ Trọng Phụng đã xây dựng một bức tranh từ những “ước mơ” riêng tư đến niềm vui tràn đầy, toàn cảnh “tang gia” không hề có chút dấu hiệu nào của sự thương xót. Phũ phàng hơn “đám con cháu chỉ muốn mau chóng chôn cụ tổ, ông Văn Minh “biết ơn Xuân Tóc Đỏ vì đã gây ra cái chết kia của cụ”.
Balzac đã mô tả cách chết của lão Gôriô với cảm giác châm biếm. Tuy nhiên, dù “những nghĩa vụ cuối cùng” đã được hai người trẻ xa lạ thực hiện một cách tận tâm. Có thể nói rằng đám tang của cụ cố tổ trong “Số đỏ” hoàn toàn đối lập với những tình huống buồn bã trong “Nghĩa vụ cuối cùng” (Lão Gôriô). Với nghệ thuật châm biếm sắc bén, Vũ Trọng Phụng đã sử dụng những chi tiết cụ thể nhằm mô tả rõ ràng hình ảnh của đám tang với sự rực rỡ, “văn minh rơm”. Ta không thể phủ nhận đây là đám tang hay đám rước bởi vẻ ngoài hoa mỹ, tạp nhạp “Ta, Tàu, Tây...”, “lợn quay”, “câu đối'. Bọn con cháu không còn từ nào để mô tả, Tuyết “mặc trang phục... Tự tin, hở cả rốn, một nửa vú...” với khuôn mặt mang “một vẻ đáng thương lãng mạn theo mốt”. Cậu Tú Tân thì tự hào “điều khiển chụp ảnh... như ở hội chợ” những gì được gọi là sự kiêng kỵ, long trọng, danh giá của buổi tang lễ chỉ là sự phô trương giả dối, sự rớm rỉn của cuộc sống, thể hiện sự cảm xúc hoa mỹ đến kì dị qua những hình thức lễ tang kỳ lạ. Tác giả đã viết một câu châm biếm cực kỳ sâu sắc “đám tang này có thể khiến cả người chết trong quan tài cũng phải cười nếu không thì cũng gật đầu.”
https://Mytour/so-do-vu-trong-phung-e164.html
Không chỉ sử dụng các yếu tố mâu thuẫn từ những điều bình thường, thậm chí tầm thường để châm biếm: Vũ Trọng Phụng còn tạo ra vô số nhân vật phụ làm nền cho bức tranh châm biếm có nguồn gốc từ chính hiện thực, những hình ảnh trong xã hội đen tối, giả dối hiện nay. Từ những người bạn thân của cụ cố Hồng... đeo đầy những huân chương... đến “gái lạ” thời đất Hà thành đang bị ảnh hưởng bởi “phong tục Tây”, “tỏ ra thân mật với nhau, khen ngợi nhau, chỉ trích nhau, ganh ghét nhau...” đã phản ánh mọi khía cạnh của tính văn hóa, vô đạo đức của những kẻ bình thường mang những chiếc mặt nạ giả dối. Những hành động của ông Phán mọc sừng đối với Xuân Tóc Đỏ ở cuối đoạn trích là những chi tiết châm biếm đặc biệt đắng cay giúp làm nổi bật sự giả dối, vô đạo đức của xã hội thượng lưu thời kỳ đó. “Ông Phán cứ khóc mãi không ngừng” nhưng vẫn không quên bí mật “gửi một tờ giấy bạc gấp tư cho Xuân”. Các trí thức chân chính của Việt Nam, không ít người từng học ở Pháp, nhưng họ đã đau vì nỗi đau nô lệ, họ đã đau vì lòng tự ái dân tộc bị tổn thương dưới gót giày xâm lược của quân Pháp và họ đã từ bỏ những tiện nghi và lợi ích cá nhân để tham gia vào cuộc cách mạng. Ta hãy lắng nghe nhật kí của Giáo sư Hồ Đắc Di, người thầy của Bác sĩ nổi tiếng - Tôn Thất Tùng) “Ai từng trải qua cuộc sống kiếp đọa đày trong đêm trường nô lệ; hoặc ít nhất là đã trải qua những thời kỳ khó khăn, luân lạc, lòng lương tâm, phẩm hạnh, chắc chắn sẽ dẫn dắt theo con đường cách mạng, khi ánh sáng của nó soi sáng tâm hồn”. Trí thức chân chính Việt Nam cùng với nhân dân lao động đã tạo ra cuộc cách mạng tháng Tám, xóa bỏ những thói ma mãnh, sự lừa dối của văn minh giả dối, bịp bợm và tình trạng số đỏ của xã hội Việt Nam đã không còn chỗ trong “cơn bão cách mạng”.
Từ cách đặt tên chương truyện, đặt tên nhân vật, đồ vật, cách so sánh, cách dùng hình ảnh, đến cách đặt câu, cách tạo giọng điệu... đều thể hiện rõ ràng tính châm biếm, châm biếm, mang lại hiệu quả nghệ thuật lớn. Sau sự hài hước đó là một cái bi kịch đáng “cười buồn”, đó chính là bi kịch của xã hội khi đạo đức con người suy giảm, nhân cách tan vỡ: sau tiếng cười là sự cảm thông sâu sắc cho xã hội Việt Nam thời đó. “Số đỏ” thực sự xứng đáng là một ‘Tấn trò đời” của xã hội Việt Nam thời kỳ thực dân nửa phong kiến thối nát. Đọc Số đỏ nói chung, và chỉ cần một chương XV “Hạnh phức của một tang gia”, ta cùng đã bật cười và rồi cảm thấy xót xa muốn khóc cho những giá trị truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc ta đã bị chà đạp đến tan nát làm đau lòng tâm hồn Việt. Vũ Trọng Phụng đã đưa chúng ta vào thế giới “phi nhân loại” mà thế lực tiền tệ và thực dân đã giới thiệu bằng khẩu hiệu giả tạo “văn minh - tiến bộ”.
Không lâu trước đó, Trần Tế Xương cũng đã cười - khóc cho xã hội truyền thống Việt Nam điên rồ qua bài thơ “Mồng hai tết thăm cô Kí”. Sau đó, Vũ Trọng Phụng đã ghi lại như một bản tin, chính xác và sống động không ngờ từ một trái tim đầy tình yêu dành cho dân tộc. Thông điệp từng trang của “Số đỏ” ngày xưa nhắc nhở mỗi chúng ta phải có trách nhiệm với đất nước. Để tình trạng “Số đỏ” sẽ chỉ còn là “một khoảnh khắc sai lầm” trong trang sử vinh quang của một dân tộc tự hào và giàu lòng tự trọng.