Bài tập
So sánh 3 văn bản được coi là tuyên ngôn độc lập của Việt Nam.
Giải chi tiết
1. Điểm tương đồng:
- Xác nhận chủ quyền, độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và của đất nước.
- Thể hiện lòng yêu nước, tình yêu quê hương, đồng bào.
- Phản ánh tội ác của kẻ thù, lên án sự lừa dối của chúng đồng thời ca ngợi, tôn vinh con người Việt Nam.
2. Điểm khác biệt
a. Bối cảnh sáng tác, đối tượng:
Ba văn bản tuyên ngôn ra đời trong ba hoàn cảnh khác nhau, hướng tới những nhóm đối tượng cụ thể khác nhau
- Nam quốc sơn hà: Bắt đầu từ thời nhà Lý, dưới thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127), trong tháng chạp năm Bính Thìn (1076), sau khi liên minh với Chiêm Thành và Chân Lạp nhà Tống (Trung Quốc) xâm lược nước ta đến sông Như Nguyệt (nay là sông Cầu thuộc làng Như Nguyệt, Bắc Ninh). Vua Lý Nhân Tông sai tướng Lý Thường Kiệt đem quân chặn đánh nhưng quân địch sử dụng súng bắn đá gây tổn thất cho ta rất nhiều. Lý Thường Kiệt vận dụng tất cả lực lượng dân quân chống lại kẻ thù sang sông, mặc dù quân của mình rất ít người, nhưng sau khi đọc bài thơ bằng chữ Hán mà Lý Thường Kiệt đã sáng tác để động viên, quân lính đã phấn chấn lên và đánh giặc một cách quyết liệt khiến quân Tống phải rút lui. Các nhà sử học cho rằng bài thơ trên cũng có giá trị như một tuyên bố độc lập vì đã thông báo cho quân địch biết về quyền tự chủ, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà mà không ai được xâm lấn. Nó cũng thể hiện lòng kiêu hãnh, tư duy và quyết tâm của cả dân tộc ở thời điểm đó.
- Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai là bài Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi viết để công bố cho mọi người biết sau khi Bình Định Vương Lê Lợi thành công trong cuộc kháng chiến mười năm chống lại quân Minh xâm lược (1418-1427).
- Bản Tuyên ngôn độc lập thứ ba của Chủ tịch Hồ Chí Minh được soạn thảo và tuyên bố vào ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình – thủ đô Hà Nội, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tài liệu lịch sử này không chỉ được tuyên bố trước quần chúng trong nước mà còn trước thế giới, đặc biệt là trước các thế lực đế quốc đang sẵn sàng tái chiếm nước ta. Trong bối cảnh này, thực dân Pháp tuyên bố rằng: Đông Dương là một phần của đất bảo hộ của Pháp, bị Nhật xâm lược, và bây giờ Nhật đã đầu hàng, vậy nên Đông Dương tự nhiên phải trở lại dưới sự quản lý của Pháp. Bản tuyên ngôn này quả quyết bác bỏ những luận điểm đó. Do đó, đối tượng của tài liệu này không chỉ là 20 triệu người dân Việt Nam để xác nhận quyền tự chủ của dân tộc, nhân dân tiến bộ thế giới để tìm kiếm sự ủng hộ, mà còn là các thế lực đế quốc như Anh, Pháp, Mỹ nhằm ngăn chặn mọi kế hoạch xâm lược của họ.
b. Phương thức xác định chủ quyền:
- Nam quốc sơn hà: Chủ quyền được xác định qua hai phương diện: lãnh thổ và quyền uy được ghi chép trong văn bản thiên nhiên – sức mạnh siêu nhiên huyền bí.
- Bình Ngô đại cáo: Chủ quyền được xác định qua nhiều phương diện hơn: tên gọi quốc gia, nền văn hóa, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, nhân vật anh hùng, danh lam thắng cảnh – tất cả tạo nên một bức tranh toàn diện về quốc gia Việt Nam, ngang hàng với Trung Quốc.
- Tuyên ngôn độc lập: Tuyên bố chủ quyền dựa trên hai phương diện: quyền tự do và độc lập của Việt Nam. Sự thực đã chứng minh Việt Nam là một quốc gia tự do và độc lập. Dựa vào sự thực này, tuyên bố độc lập được thực hiện. Đây là một phương pháp lập luận khoa học, chặt chẽ, hấp dẫn.
c. Tình yêu nước, lòng thương dân:
- Nam quốc sơn hà: Nêu lên theo quan niệm Nho giáo, trung tâm tình yêu quê hương. Yêu nước là yêu vua, yêu vua là yêu nước. Sức mạnh của đất nước tỏ lên thông qua quyền lực của vua.
- Bình Ngô đại cáo: Đặt trọng tâm vào việc yêu thương nhân dân: dân là cội nguồn, yêu nước là yêu nhân dân: dân tộc, dân là cội nguồn.
“Việc làm cho nhân dân yên bình là quan trọng nhất”
“Đẩy dân vào cảnh khốn khó
Làm dân chịu đựng đau khổ”
Nhân dân là nhóm người chịu tổn thương nhiều nhất trong thời chiến. Họ là nhân dân Việt Nam.
=> Quan điểm này có tính tiến bộ nhưng chưa đầy đủ.
- Tuyên ngôn độc lập: Yêu nước là yêu dân tộc, là mang lại độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân “Pháp bỏ chạy, Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ …”. Tình yêu con người được nhấn mạnh, không chỉ dành riêng cho dân tộc mà còn mở rộng ra toàn nhân loại. Quan niệm tiên tiến về tư duy con người trong thời đại mới.
d. Cách khởi đầu:
- Nam quốc sơn hà: Khai mạc bằng lời tuyên bố vững chắc: Nam quốc sơn hà Nam đế cư (núi sông non nước Nam vua ở);
- Bình Ngô đại cáo: Nguyễn Trãi khẳng định một sự thật lịch sử: Hành động nhân nghĩa dựa trên lòng yêu nước – Làm trước cho nhân dân bị bạo động sau.
- Tuyên ngôn độc lập: Mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của thế giới. Câu đầu tiên được lấy từ Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Họ được tạo hóa với những quyền không thể vi phạm, bao gồm quyền sống, quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc. Câu thứ hai được trích từ Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền Cách mạng Pháp năm 1791: Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Điều này là một chiến lược và chiến thuật của Bác. Người muốn sử dụng lời của ông cha Pháp và Mỹ để phản đối những kẻ thù của độc lập tự do. Nếu phần khởi đầu của Nam quốc sơn hà là lời tuyên bố chủ quyền dân tộc, khởi đầu của Bình Ngô đại cáo là một phương châm nhân nghĩa liên quan đến bình yên cho nhân dân thì phần khởi đầu của Tuyên ngôn độc lập là một lời tranh luận ẩn dụ nhằm loại bỏ mưu mô thủ đoạn của bọn thực dân. Cách trích dẫn này không chỉ cung cấp một nền tảng vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam mà còn tạo ra niềm tự hào dân tộc sảng khoái.
Trong phần mở đầu, ngoài việc trích dẫn lời nói của hai bản Tuyên ngôn độc lập trên, Bác còn thể hiện một tư duy phong phú và sáng tạo thông qua việc mở rộng luận điểm: Mọi dân tộc đều sinh ra bình đẳng, mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền hạnh phúc và quyền tự do. Ở đây, Bác đã đưa quyền con người lên tầm cao mới là quyền dân tộc, từ vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân lên thành quyền của tất cả những dân tộc đang bị áp bức trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài từng viết: Đó là sự đóng góp nổi bật của Bác là đã phát triển quyền lợi của dân tộc. Vì vậy, mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định vận mệnh của mình.
e. Phương thức tố cáo tội ác của kẻ thù:
- Nam quốc sơn hà: Đề cập đến việc vạch trần tội ác của quân xâm lược, như một dự báo cho số phận của những kẻ xâm phạm đất nước khác. Cách diễn đạt đầy cảm xúc, súc tích.
- Bình Ngô đại cáo: Ông Ức Trai đã phơi bày tội ác của quân Minh mượn gió bẻ măng, tận dụng cơ hội để đoạt Trần, áp bức nước ta: 'Nhân họ Hồ khổ cực - Quân Minh cơ hành hại lúa'. Trong quá khứ, Nguyễn Trãi đã tổng kết tội ác lớn lao và chủ trương cai trị bất nhân đạo của kẻ thù Ngô qua hai câu thơ: 'Nướng dân đen trên lửa thiêu - Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ'.
- Tuyên ngôn độc lập: Trong tác phẩm của mình, Bác đã sử dụng lập luận phản bác để phơi bày năm tội ác chính trị và bốn tội ác kinh tế của thực dân Pháp. Nếu Pháp đưa ra chiêu bài bảo hộ thì Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra rõ: 'Năm năm, chúng đã bán nước ta cho Nhật...'. Trong Tuyên ngôn độc lập, với phong cách văn nghệ sắc sảo, giàu tính tranh luận, Bác đã viết: 'Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, làm dân ta nghèo khổ, thiếu thốn, nước ta suy đồi, tàn phá. Chúng chiếm đoạt ruộng đất, mỏ, nguyên liệu. Với cấu trúc câu chữ lặp đi lặp lại, lập đi lập lại từ 'chúng', Tuyên ngôn độc lập là một cuộc tố cáo chi tiết về những hành động tàn ác của kẻ thù Tây trên lãnh thổ Việt Nam. Đặc biệt, trong Tuyên ngôn độc lập, thông qua các dẫn chứng cụ thể, số liệu, Bác cũng tiếp tục phơi bày thủ đoạn độc ác của chính sách bắt nô, áp bức dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện, lập nhiều nhà tù hơn là trường học. Chỉ trích âm mưu gian ác này, trong Tuyên ngôn độc lập, Bác viết: 'Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách dối trá. Chúng sử dụng ma túy, rượu cồn để làm yếu đuối tinh thần của dân tộc.'
g. Tính chất chính trị, thái độ nhân văn và chính nghĩa:
- Nam quốc sơn hà: Theo sách trời đã quyết định, không gì có thể thay đổi.
- Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi: Mang tinh thần cao quý để đánh bại sự hung ác – Thay đổi quyền lợi bằng lòng nhân từ. Tư tưởng nhân nghĩa là tia sáng rực rỡ xuyên suốt trong Bình Ngô đại cáo và cuộc chiến đấu chống lại quân Minh của người dân Đại Việt. Sau khi kẻ thù đầu hàng, lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn đã thực hiện những hành động vô cùng cao quý: Mã Kì, Phương Chính cung cấp năm trăm chiếc thuyền, ra biển mà hồn bay phách lạc – Vương Thông, Mã Anh phân phát vài nghìn con ngựa, trở về quê mà tim đập chân run. Sự thảm hại của kẻ thù không chỉ làm nổi bật khí thế vĩ đại của nghĩa quân mà còn làm nổi bật tính chất chính trị, nhân đạo rực rỡ của cuộc kháng chiến chống lại quân Ngô từ xưa đến nay.
- Trong Tuyên ngôn độc lập, Bác đã ca ngợi thái độ khoan dung và nhân từ của dân tộc Việt: Sau vụ biến cố ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp người Pháp vượt qua biên giới, cứu hàng ngàn người Pháp ra khỏi nhà tù Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ. Tinh thần nhân nghĩa ấy đã từ lâu xuất hiện trong đạo lý dân tộc: Đánh kẻ chạy không phải là đức tính. Trong truyện cổ dân gian, khi nghe Thạch Sanh chơi đàn, quân địch rụng rời chân tay và xin hàng. Trước khi chúng trở về, Thạch Sanh không chỉ tha thứ mà còn cung cấp cho họ niêu cơm “ăn mãi không hết”...
h. Tuyên bố độc lập:
- Lời kết Bình Ngô đại cáo với sự kết hợp giữa ý chí độc lập và ý chí vũ trụ, Ông Ức Trai trang trọng tuyên bố nền độc lập tự do: Xã hội từ nay vững mạnh – Phong trào từ đây đổi mới – Trí tuệ kiêu hãnh nhưng thấu suốt – Ánh sáng vĩnh hằng nhưng rạng rỡ – Thời kỳ hòa bình vững chắc muôn đời, nỗi nhục nhã của quá khứ sẽ được rửa sạch mãi mãi.
- Trong Tuyên ngôn độc lập, trước khi công bố quyền được hưởng tự do độc lập một cách xứng đáng của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã tuyên bố cắt đứt mọi quan hệ với thực dân, hủy bỏ mọi hiệp ước, mọi quyền lợi của Pháp tại Việt Nam. Đây là một hành động vô cùng quan trọng. Để xây dựng một quốc gia Việt Nam mới và mở ra một thời kỳ độc lập tự do cho đất nước, chúng ta cần phải loại bỏ mọi ràng buộc, mọi mối liên hệ với thực dân Pháp, phải đánh bại mọi âm mưu của Đờ Gôn (tướng Pháp) và bọn thực dân phản loạn Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương: Việt Nam có quyền được tự do và độc lập và điều này đã trở thành sự thật. Toàn bộ dân tộc Việt Nam quyết tâm dùng tất cả tinh thần và sức mạnh, tính mạng và tài sản để bảo vệ quyền tự do, độc lập đó. Đoạn văn này bao gồm ba ý, được sắp xếp theo cấp độ tăng dần: quyền tự do và độc lập của dân tộc, tự do và độc lập là sự thật, quyết tâm duy trì độc lập và tự do bằng mọi giá của người Việt Nam. Đây là một tuyên bố hào hùng, là kết quả của rất nhiều hy vọng, nỗ lực và niềm tin của hơn hai mươi triệu dân (Trần Dân Tiên).
i. Về nghệ thuật.
- Về tổng thể, Tuyên ngôn độc lập có những điểm tương đồng với Bình Ngô đại cáo nhưng cách trình bày ngắn gọn và rõ ràng hơn. Trong khi hai tác phẩm trước đó được viết theo thể thơ văn cổ Trung đại, Tuyên ngôn độc lập được viết theo phong cách văn chính luận hiện đại với lập luận sắc bén, chứng cứ rõ ràng, hình ảnh sinh động, ngôn từ chính xác, kết hợp sâu sắc giữa văn học và chính trị, tiếp tục và phát triển.
- Ngôn từ, cách diễn đạt, lập luận của Tuyên ngôn độc lập ngắn gọn, dễ hiểu, lập luận khoa học, sắc sảo. Nam quốc sơn hà ngắn gọn, súc tích nhưng chưa thực sự đầy đủ. Bình Ngô đại cáo dài hơn.
- Thể loại chữ viết của hai tác phẩm trước: Tuyên ngôn độc lập là văn chính luận viết bằng chữ quốc ngữ, Bình Ngô đại cáo là văn chữ Hán viết theo thể phú, Nam quốc sơn hà là thơ tứ tuyệt Đường luật.
3. Lí giải: Vì sao giữa Tuyên ngôn độc lập và Bình Ngô đại cáo lại có sự khác biệt và tương đồng về nội dung và tư tưởng.
- Tương đồng: là do cả hai nhà văn đều là những vĩ nhân của Việt Nam, tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc từ thời xa xưa, có lòng yêu nước và yêu nhân dân.
- Khác biệt: là do hoàn cảnh sống của hai nhà văn khác nhau, có môi trường sống, trình độ hiểu biết và tài năng nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là ngoài việc tiếp thu tinh hoa dân tộc, Chủ tịch Hồ còn đón nhận tinh hoa văn hóa thế giới một cách có chọn lọc.
4. Đánh giá:
Tất cả 3 tác phẩm đều khẳng định chủ quyền của đất nước, là nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho nhân dân ta trong việc xây dựng và bảo vệ quê hương.