Đề bài
So sánh khung cảnh trong Chữ người tử tù và cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Lời giải chi tiết
Nguyễn Tuân được coi là một trong những nhà văn nổi bật nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Trước Cách mạng, ông được biết đến là một nhà văn lãng mạn nổi tiếng với những tác phẩm “Vang danh một thời” “Nhớ quê hương”… , sau Cách mạng, cảm hứng nghệ thuật của ông từ hiện thực cuộc sống mới, trở thành một nhà văn kháng chiến, một nhà văn Cách mạng, say mê tìm kiếm, khám phá và ca ngợi vẻ đẹp của non sông gấm vóc và vẻ đẹp của con người Việt Nam trong lao động và chiến đấu: “Tùy bút Sông Đà”, “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”…. Dù ở giai đoạn sáng tác nào, văn Nguyễn Tuân vẫn thu hút người đọc bởi ngòi bút tài hoa uyên bác . Trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân, truyện ngắn Chữ người tử tù (trong tập Vang danh một thời- sáng tác trước Cách mạng) và Người lái đò sông Đà (trong tùy bút Sông Đà - sáng tác trong chuyến đi thực tế lên Tây Bắc 1958) là hai thành công nổi bật, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của tác giả ở hai giai đoạn sáng tác. Đặc biệt là cảnh cho chữ và cảnh vượt thác được xem là những đỉnh cao nghệ thuật trong văn học Việt Nam. Qua đó không chỉ thấy được tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân mà còn phản ánh ý thức nghệ thuật ổn định và mới mẻ của ông trước và sau Cách mạng.
Cảnh cho chữ xuất hiện ở phần kết của truyện ngắn Chữ người tử tù. Câu chuyện là cuộc gặp gỡ giữa hai con người trong một tình huống cực kỳ hi hữu: Một bên là Huấn Cao có tài viết chữ nhanh và đẹp, văn võ song toàn nhưng lại là kẻ phản nghịch lãnh án tử hình; một bên là viên quản ngục - kẻ thực thi pháp luật đang giam giữ Huấn Cao nhưng lại là người có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, yêu quý cái đẹp. Trên mặt xã hội, họ đối lập nhau, nhưng trên mặt nghệ thuật, họ đều là những nghệ sĩ chân chính. Sự gặp gỡ giữa hai con người ấy trong chốn giam giữ đưa ra một tình huống đầy kịch tính, đặc biệt khi viên quản ngục nhận được công văn khẩn và biết sáng sớm mai Huấn Cao đã được giải thoát khỏi pháp trường. Liệu nguyện vọng tình cảm của viên quản ngục là có được bức chữ của Huấn Cao để treo trong nhà được thực hiện không? Liệu tấm lòng biệt nhỡn liên tài của ông có được Huấn Cao đồng ý? Liệu tài năng văn học của Huấn Cao trước khi ra đi có kịp để lại cho thế hệ sau những dòng chữ cuối cùng?.. Trong cốt truyện, cảnh cho chữ đóng vai trò “mở cửa”, giải tỏa. Từ đây, nổi bật lên vẻ đẹp kỳ vĩ của nhân vật, nổi bật lý tưởng thẩm mỹ của người nghệ sỹ Nguyễn Tuân.
Tư thế của người cho chữ và nhận chữ lại càng 'chưa từng có' hơn nữa: Người cho chữ là kẻ tử tù chỉ sáng sớm mai đã ra pháp trường, cổ vẫn đeo gông , chân vướng xiềng đang dậm tô những nét chữ vuông tươi tắn trên tấm lụa bạch trắng tinh còn nguyên vẹn lần hồ. Những thứ gông xiềng quái ác ấy càng tô đậm lên vẻ đẹp hiên ngang, hành động nghĩa hiệp, thiêng liêng của người cho chữ. Tương phản với tư thế, hành động này là người được nhận chữ: viên quán ngục lại khúm núm, thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng chậu mực.Trong cảnh này có rất nhiều điều trái với trật tự thông thường, nhà lao - nơi ngự trị của bóng tối, cái xấu, cái ác trở thành nơi để sáng tạo nghệ thuật - sản sinh ra cái Đẹp; người tù vượt lên sự trói buộc của gông xiềng trở thành người nghệ sĩ với niềm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật mãnh liệt, ông hiện lên một cách uy nghi, đĩnh đạc, đường hoàng. Đó chính là sự lên ngôi của cái đẹp giữa chốn ngục tù, là chiến thắng của cái Đẹp, cái cao thượng, cái thiên lương trong lành đối với những cái xấu, cái ác, cái thấp hèn. Hai con người ở những vị trí đối kháng trở thành hai người bạn tri âm. Cái Đẹp đã đưa họ đến với nhau, không còn ranh giới giữa phạm nhân và quan coi ngục mà là một tấm lòng đáp lại một tấm lòng. Vì thực sự coi nhau là tri âm, cho chữ xong, Huấn Cao còn đỡ quản ngục dậy và nói với ông những lời khuyên chân thành, tâm huyết: “…Thầy Quản nên tìm về quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi. Ngục quan cảm động, chắp tay vái người tù: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh.Thái độ của Huấn cao thể hiện vẻ đẹp văn hóa và tinh thần nghĩa hiệp sáng ngời của một tấm lòng bè bạn, lời khuyên của Huấn Cao mang ý nghĩa sâu sắc: Cái Đẹp không thể chung sống với cái ác, cái xấu, cái gốc của chữ nghĩa chính là thiên lương, người nghệ sĩ say mê cái đẹp trước hết phải giữ được thiên lương. Trước lúc giã từ cõi đời, Huấn cao đã để lại lời di huấn ấy với niềm thiết tha mong mỏi con người còn sống sáng ra lẽ đó. Niềm mong mói ấy không phải chỉ có thời ông Huấn mà đến hôm nay nó vẫn còn nguyên giá trị. Đó cũng chính là lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân về sự thống nhất giữa TÂM và TÀI, giữa THIỆN và MỸ
Đoạn văn đã thể hiện tài nghệ của Nguyễn Tuân trong việc dựng cảnh , tạo không khí, giọng văn trang trọng, cổ kính, vận dụng khai thác triệt để thủ pháp tương phản để dựng nên một cảnh tượng đúng là 'xưa nay chưa từng có. cảnh cho chữ là một trong những áng văn đẹp nhất của văn học Việt nam hiện đại, là một điểm sáng góp phần không nhỏ làm nên thành công cho tác phẩm Chữ người tử tù.cảnh cho chữ đem đến một kết thúc có hậu, giúp người đọc thêm yêu mến một nét đẹp trong văn hóa dân tộc, cảm phục trước một tài năng, nhân cách cao cả, gieo vào lòng người một niềm tin bất diệt vào chiến thắng của thiên lương.
Còn trong cảnh vượt thác trong tác phẩm ' Người lái đò sông Đà' thì Nguyễn Tuân lại miêu tả ông lái đò là một người lao động, là hình ảnh của con người Tây Bắc trong công cuộc lao động, xây dựng cuộc sống mới., đồng thời cũng là một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh.
Để hiểu được tài nghệ siêu phàm của ông đò, trước hết chúng ta phải nói đến sông Đà - đối tượng mà ông chinh phục. Tác giả đã miêu tả ông đò trong thế tương phản với thế lực thiên nhiên hùng hậu sông Đà - một nhân vật vô cùng sống động - mang diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một đối với con người (diện mạo đó được thể hiện qua địa thể hiểm trở: Bờ đá, ghềnh, xoáy nước, ... Đáng gờm hơn cả là tâm địa của nó qua cách bày binh bố trận nham hiểm với vô số những boong-ke chìm, pháo đài đá nổi, ba lớp trùng vi thạch trận Để chinh phục một đổi thủ cao tay như thế, đòi hỏi ở người lái đò một sự từng trải, dày dặn kinh nghiệm, một bản lĩnh gan dạ can trường, một sự thông minh khôn khéo và đặc biệt là tài năng siêu việt...Sự am hiểu kỹ càng về đối tượng chính là một yếu tố quan trọng giúp cho ông có được tư thế chủ động trong cuộc chiến với sông Đà Cảnh vượt thác chính là tâm điểm nóng nhất, một trận thủy chiến vô cùng ác liệt, gay cấn, đầy không khí chiến trận, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp của ông đò: người lao động- nghệ sĩ tài ba.
Không khí trận mạc ngay từ câu văn mở đầu cảnh vượt thác :“Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới.Phối hợp với đá, thác nước reo hò làm thanh viện cho đá”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. “ mặt nước hò la vang dậy, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo,sóng nước như thể quân liều mạng xông vào mà “đá trái” mà “ thúc gối vào bụng và hông thuyền… Có lúc chúng đội cả thuyền lên“….Sóng thác đã đánh miếng đòn hiểm độc nhất bóp chặt lấy hạ bộ” khiến cho ông đò đau điếng mặt méo bệch đi. Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân kẹp chặt cuống lái , bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”.vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn , tỉnh táo, của người cầm lái, con thuyền thoát khỏi nguy hiểm.vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất.
Trận đánh vẫn tiếp diễn dữ dội hơn, không dừng lại một chút nào, cần phải phá vỡ vòng vây thứ hai và thay đổi chiến thuật. Nhờ kinh nghiệm lâu năm, ông đã hiểu rõ chiến thuật của sông đá, nắm vững quy luật phục kích của lũ đá nguy hiểm này. Trong trận đánh thứ hai, ông đã tấn công mạnh mẽ, khiến cho đám đá phải chống đỡ mệt nhoài. Cuối cùng, ông chiến thắng và bọn đá phải chịu thất bại.
Bằng sự tưởng tượng và sức mạnh quan sát, Nguyễn Tuân đã tạo ra một cảnh chiến đấu đầy kịch tính, nhấn mạnh sức mạnh của con người trước sự hung bạo của sông Đà. Mỗi hành động của ông đò đều được mô tả chân thực và sắc nét, làm cho đọc giả cảm nhận được sự căng thẳng và gay cấn của cuộc chiến.
Nguyễn Tuân đã biết chọn lựa những đề tài độc đáo và sử dụng ngôn từ một cách tinh tế. Phong cách viết của ông qua hai đoạn văn trên đều ổn định và độc đáo.
Tài năng nghệ sĩ của Nguyễn Tuân được thể hiện qua cảnh Huấn Cao và ông đò vượt thác. Dù ở hoàn cảnh khác nhau, họ đều là những biểu tượng của sự tài hoa và vẻ đẹp trong văn học.
Uyên bác của Nguyễn Tuân hiện lên qua việc sử dụng kiến thức rộng lớn từ nhiều lĩnh vực khác nhau, từ văn hóa đến quan sự. Hai đoạn văn trên đều mang lại cho đọc giả những kiến thức thú vị và bổ ích.
Nguyên Tuân đặc biệt được cảm hứng bởi những cảnh tượng đầy mãnh liệt. Ông là người viết về những cảm xúc mạnh mẽ, những tình cảm lớn. Hai cảnh trong hai tác phẩm của ông đều truyền đạt được sức mạnh của cảm xúc. Thủ pháp tương phản được sử dụng để làm nổi bật những cảnh tượng gây ấn tượng mạnh mẽ. Trên hết, Nguyên Tuân khẳng định được tài nghệ của mình qua việc tạo ra những tác phẩm đầy ấn tượng.
Với ngôn từ phong phú, chuẩn xác, và giàu giá trị tạo hình, Nguyên Tuân được biết đến như một thầy phù thủy của ngôn ngữ. Cả hai cảnh trong hai tác phẩm đều chứng minh được điều này.
Nguyên Tuân đã thể hiện sự đổi mới trong cách viết của mình. Trong cảnh cho chữ, ông tìm ra vẻ đẹp ẩn giấu trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân, trong khi ở cảnh vượt thác, ông phản ánh sức mạnh của tài nghệ lao động. Sự thay đổi này làm cho văn của Nguyên Tuân trở nên gần gũi và hiện đại hơn.
Nguyên Tuân từng tuyệt đối hóa cái phi thường, nhưng giờ đây ông nhận ra sự thống nhất giữa cái phi thường và bình thường. Ngôn ngữ của ông từ cổ kính, đài các, đã chuyển sang hiện đại, gần gũi hơn với đời sống thực tế. Điều này làm cho văn của Nguyên Tuân vẫn tài hoa uyên bác mà không trở nên kiêu ngạo.
Hai tác phẩm của Nguyên Tuân là minh chứng cho phong cách sáng tác đa dạng của ông. Trong thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám, nhiều tác giả đã thay đổi phong cách sáng tác của họ để phản ánh cuộc sống hiện đại. Sự đổi mới trong việc viết của Nguyên Tuân là điều không thể phủ nhận.