Đến 200 hộ dân trong nhóm nghèo nhất mới có 1 chiếc ô tô duy nhất.
Báo cáo 'Kết quả Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2020' cho thấy, thu nhập bình quân (TNBQ) mỗi người mỗi tháng trong cả nước năm 2020 là 4249,8 nghìn đồng, giảm khoảng 1% so với năm 2019. Trong giai đoạn từ 2016 đến 2020, TNBQ mỗi người mỗi tháng trung bình tăng 8,2%.
TNBQ mỗi người mỗi tháng năm 2020 ở khu vực thành thị là 5590,2 nghìn đồng, gấp gần 1,6 lần so với khu vực nông thôn (3481,5 nghìn đồng).
Đặc biệt, nhóm hộ giàu nhất (chiếm 20% dân số giàu nhất - nhóm 5) có TNBQ mỗi người mỗi tháng năm 2020 đạt 9191,8 nghìn đồng, cao hơn hơn 8 lần so với nhóm hộ nghèo nhất (chiếm 20% dân số nghèo nhất - nhóm 1), với mức thu nhập đạt 1142,8 nghìn đồng.
Nếu xem xét số liệu về số lượng ô tô trên 100 hộ dân theo 5 nhóm thu nhập này, ta có thể thấy sự chênh lệch lớn.
Nhìn tổng thể, ta có thể thấy số lượng ô tô trên 100 hộ dân tăng đều qua các năm ở tất cả các nhóm thu nhập. Nhóm 1 tăng từ 0,1 vào năm 2010 lên 0,5 vào năm 2020. Nhóm 2 tăng từ 0,1 lên 1,2. Nhóm 3 tăng từ 0,1 lên 2,4. Nhóm 4 tăng từ 1 lên 5,1. Nhóm 5 tăng từ 4,5 lên 12,7.
Năm 2010, mỗi 1.000 hộ dân trong nhóm giàu nhất có 45 chiếc ô tô, nhưng đến năm 2020 đã tăng lên 127 chiếc - con số này cao hơn gấp 25 lần so với nhóm nghèo nhất (chỉ 5 chiếc ô tô trên mỗi 1.000 dân). Đồng nghĩa, cần đến 200 hộ trong nhóm nghèo nhất mới có 1 chiếc ô tô.
Báo cáo cũng chỉ ra sự bất bình đẳng trong chi tiêu đời sống bình quân đầu người mỗi tháng giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất, lên đến 5,7 lần vào năm 2020 (5677,9 nghìn đồng/người/tháng so với 1001,6 nghìn đồng/người/tháng).
Hệ số GINI (theo thu nhập) của Việt Nam vào năm 2020 là 0,375, thấp hơn GINI trong giai đoạn 2010-2019 ở mức 0,4 nhưng vẫn ở mức bất bình đẳng trung bình. Mức độ bất bình đẳng ở nông thôn cao hơn thành thị. Hai vùng có tỷ lệ nghèo cao nhất là Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, cũng là hai vùng có hệ số GINI cao nhất, trong khi vùng có hệ số GINI thấp nhất là Đông Nam Bộ.
Liên quan đến nỗ lực giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều trên toàn quốc vào năm 2020 là 4,8%, giảm gần một nửa so với năm 2016 (từ 9,2% xuống còn 4,8%). Tuy nhiên, trong giai đoạn 2016-2020, khoảng cách nghèo đa chiều giữa nông thôn và thành thị đang giảm dần.
Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều có sự khác biệt giữa các vùng. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều cao nhất (14,4%), tiếp đến là các vùng Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (11% và 6,5%). Vùng có tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều thấp nhất là Đông Nam Bộ (0,3%).
Trong giai đoạn 2016-2019, tỷ lệ hộ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản có xu hướng giảm qua các năm ở đa số các chỉ số. Tuy nhiên, vào năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, xu hướng giảm này không tiếp tục ở một số chỉ số.
Bảo hiểm y tế là chỉ số thiếu hụt nhiều nhất, nhưng cũng giảm nhanh nhất, từ 40,6% năm 2016 giảm xuống còn 18,9% năm 2020. Khám chữa bệnh và giáo dục trẻ em có mức thiếu hụt rất ít. Các chỉ số như tài sản tiếp cận thông tin, khám chữa bệnh, giáo dục trẻ em và giáo dục người lớn không thay đổi đáng kể qua các năm.
https://cafef.vn/so-o-to-tren-100-ho-dan-trong-nhom-giau-nhat-viet-nam-chenh-lech-ra-sao-so-voi-100-ho-dan-trong-nhom-ngheo-nhat-20220612085336547.chn